Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Wednesday, 29 June 2011

Ước tính theo giá thị trường hiện nay, một cây lim từ 300-500 tuổi nếu bán “bèo” nhất cũng không dưới 400 triệu đồng, thì với hàng ngàn cây lim, dổi… hiện có của rừng Trút, tiền phải đựng bằng nhiều xe container mới hết.

Mỏ “vàng xanh”

Nằm ở xã thuộc huyện miền núi xa nhất của Quảng Ngãi, thế nhưng rừng Trút chỉ cách tuyến giao thông Di Lăng - Trà Trung chưa đầy 6km và có đường để ô tô chạy đến tận nơi. Với vị trí đầy “thuận lợi” và núi xung quanh đã bị “cạo sạch”, thì sự tồn tại gần như nguyên vẹn hàng trăm héc ta của khu rừng Trút từ bao đời nay đã làm chúng tôi ngạc nhiên đến mức sững sờ.

Từ bìa rừng cho đến bên trong không biết cơ man nào các loại cây lớn, bé, đặc biệt là những loại quý như: Lim xanh, Lim xẹt, dổi…vốn tưởng chừng chỉ còn tồn tại trong rừng sâu, với đủ kích cỡ vẫn sừng sững đứng nối nhau, toả bóng mát. Nhỏ thì thân to cỡ một vòng tay người, lớn 5-7 người ôm.

Riêng tại điểm bên trong, cách bìa rừng phía tây khoảng 20m, có một cây lim xanh cao ước trên 25m, gốc to đến 12 người ôm cũng không xuể.

Anh Hồ Văn Thế, người dân ở tổ 4 đang dẫn chúng tôi bĩu môi: "Cỡ đó thì ăn thua gì, ở rừng này nhiều cây còn to hơn". Theo ông Nguyễn Hữu Quân (57 tuổi), một “chuyên gia” về gỗ ở TP. Quảng Ngãi thì với kích cỡ như vậy, cây lim đó phải có vòng đời 500-700 tuổi. Và với giá thị trường hiện nay, nếu bán “bèo” nhất cũng không dưới 600 triệu đồng. Mà đâu chỉ một vài, số lượng cây lim, dổi đang hiện diện tại rừng Trút ước phải lên đến con số hàng ngàn.

Những “thần rừng” thời hiện đại

Trong khi nhiều người vì cái lợi trước mắt đã tìm đủ mọi cách phá rừng để lấy gỗ, thì 7 hộ dân ở tổ 4, thôn Xanh, xã Trà Trung, huyện Tây Trà lại ngày đêm canh giữ rừng Trút, với một suy nghĩ đơn giản để con thú có chỗ ở không phải bỏ đi nơi khác; con chim có cây để đậu, làm tổ. Và mùa khô, con suối sẽ không bị cạn để người trong làng lấy nước về dùng.

Già làng Hồ Văn Ba (71 tuổi), nhớ lại: "Hồi còn giặc Mỹ, có lần thấy máy bay vòng quanh, sợ nó phun lửa, bỏ chất độc để phá khu rừng này nên tao đã lấy súng bắn đuổi. Dù đang giữ cả một “kho” gỗ quý với đủ loại: Lim, dổi…thế nhưng 100% ngôi nhà ở thôn 4 đều làm bằng các loại gỗ tạp. Nếu tao đốn làm nhà được thì người khác cũng sẽ làm theo, vậy thì rừng sẽ mất đi rất nhiều cây".
Điều đáng quý hơn là cuộc sống của 7 hộ, gồm 32 khẩu ở đây tuy rất nghèo, thế nhưng từ bao đời nay chưa một người dân nào trong làng có ý nghĩ đến lấy gỗ để bán.


“H”, một tay lâm tặc có tiếng ở thị trấn Di Lăng, huyện Sơn Hà đã hoàn lương kể, cách đây 3 năm đã đích thân cầm gần 200 triệu đồng sang, với mục đích mua sự im lặng của các hộ dân làng này để cho cả nhóm hạ 2 cây lim xanh. Tưởng rằng với số tiền quá lớn như vậy thì mọi người sẽ đồng ý, nào ngờ đáp lại chỉ là những cái lắc đầu đầy kiên quyết, dù số tiền sau đó được nâng lên gần 300 triệu đồng.

Theo người dân trong tổ, thì số vụ lâm tặc xâm nhập rừng Trút để khai thác trong vòng 10 năm qua tính chưa hết 1 bàn tay xoè. Và hầu như chưa có vụ nào mà lâm tặc hạ và đưa được gỗ ra khỏi khu rừng này. Chính nhờ vậy mà rừng Trút rộng đến cả trăm héc ta, với hàng trăm cây gỗ quí vẫn bình yên vô sự cho đến ngày hôm nay.

Du lịch, GO! - Theo Zing


Núi Cà Đam
.
Tên chữ của núi là Vân Phong, Cà Đam là tiếng gọi của người địa phương. Núi nằm ở phía Tây Nam của huyện Trà Bồng và phía Đông Nam của huyện Tây Trà. Núi Cà Đam có đỉnh cao nhất là 1413m, vị trí núi ở phía Tây Nam huyện Trà Bồng.
.
Đứng từ vùng đồng bằng nhìn lên phía Tây Bắc của tỉnh Quảng Ngãi thấy hình núi cao vọt lên giữa lớp lớp núi. Sách Đại Nam nhất thống chí, quyển 6 chép về tỉnh Quảng Ngãi, có viết: “hình núi cao vót lên giữa từng trời, có các núi bao quanh bốn phía trùng điệp, đứng xa trông thấy tươi sáng. Chóp núi dờn dợn mây bay, suốt ngày khí sắc như lúc trời mới sáng hay sau khi mưa tạnh”. 
.
Núi Cà Đam được xem là một trong những cảnh đẹp của tỉnh Quảng Ngãi, được Tuần vũ Nguyễn Cư Trinh làm thơ vịnh với tựa đề “Vân Phong túc vũ” (Núi Vân Phong mưa đêm”. Vân Phong hay Cà Đam là căn cứ địa của nghĩa quân dân tộc Cor chống Pháp từ năm 1938 đến năm 1945. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Cà Đam được chọn làm căn cứ địa của tỉnh, là trung tâm đầu não của cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi (tháng 8/1959).
.
World.vietnammls
Về Hòa Bình, nhiều du khách ngỡ ngàng khi bắt gặp hình ảnh những ngôi nhà sàn cổ và độc đáo. Qua bao thế hệ, người dân tộc Mường vẫn giữ nguyên nét bình dị trong văn hóa xây cất nhà sàn cổ. Trong đó chứa đựng những bí ẩn vô cùng độc đáo.

Theo cụ Nguyễn Văn Nam, một cao niên người dân tộc Mường, xã Bình Thanh, huyện Cao Phong kể lại: “Xưa kia, ở xứ Mường cổ, hình thái tổ chức xã hội đặc thù là chế độ Lang đạo, các dòng họ Lang đạo như: Đinh, Quách, Bạch, Hà… chia nhau cai quản các vùng. Đứng đầu mỗi Mường có các Lang cun, dưới Lang cun có các Lang xóm hoặc Đạo xóm, cai quản một xóm. Trong áng mo “Đẻ đất, đẻ nước” của người Mường cũng có đoạn kể: Một hôm Lang Đá Cần, vị Lang đầu tiên cai quản đất Mường đi bẫy và bắt được một con rùa. Con rùa van nài Lang đừng giết thịt, bù lại rùa mách bảo cho cách làm nhà sàn. Rùa dạy: “Bốn chân tôi là bốn cột cái/Hai mai tôi là hai mái nhà/Xương sống tôi là đòn nóc/Chặt cây lim làm cột/Lạt buộc bằng cây giang/Cỏ gianh dùng để lợp”.

Câu chuyện này được coi như một điển tích về sự ra đời nhà sàn của người Mường. Nó gắn liền với những phong tục tập quán, sinh hoạt thường ngày của người dân bản. Và cho tới ngày nay, những nếp nhà sàn đó vẫn còn vẹn nguyên với người dân nơi đây. Hình ảnh con rùa cho đến nay không chỉ là con vật linh thiêng được người Mường tôn thờ mà còn sáng tạo ra một cách tính ngày tốt, giờ tốt gọi là phương pháp “trừ đá Rò” (Rò ở đây được hiểu là Rùa). Phương pháp này dùng để tiến hành dựng nhà hay cưới hỏi và làm những việc quan trọng khác của làng và dân bản.

Trong truyền thống văn hoá của dân tộc Mường thì không cho phép dựng nhà thành hàng, lối nhưng bao giờ, nhà sàn cũng đều ở vị trí dựa lưng vào thế đất cao như sườn đồi, sườn núi để đón nhận tiết trời trong lành và tiện cho việc sinh hoạt, săn bắn, đi rừng. Ở giữa màu xanh thiên nhiên núi rừng, những nếp nhà sàn vẫn tồn tại như một minh chứng rõ nét nhất về sức sống lâu bền của văn hoá Mường hàng nghìn năm qua.

Nhà sàn của người Mường thường phân ra ba mặt bằng: Mặt trên cùng là gác để đựng lương thực, đồ dùng gia đình; sàn nhà là nơi sinh hoạt nghỉ ngơi; còn gầm sàn nhà dùng để các dụng cụ sản xuất, nhốt gia súc, gia cầm. Mỗi nhà có thể bày biện, trang trí khác nhau nhưng cấu trúc cơ bản về gian, buồng giống nhau.

Nguyên liệu cơ bản được bà con sử dụng để dựng nhà sàn là gỗ, thường là các loại gỗ trai, chò chỉ, nghiến, sến, táu, dổi, de, đinh, lát...Ngoài gỗ để làm các chi tiết chính, nhà sàn của người Mường cần sử dụng các loại tre, bương, hóp để làm đòn tay, đan vách... Cột nhà làm bằng gỗ tròn hoặc vuông nhưng phổ biến là tròn; chân cột thường được chôn xuống đất nhưng cũng có nơi dùng các hòn đá tảng để kê. Vì chân cột nhà sàn thường được chôn sâu xuống đất từ 80cm - 1m nên phải làm cột bằng thứ gỗ không bị mối ăn, không mục, không mọt.

Nhà sàn cổ truyền của người Mường thường cấu trúc một gian hai chái, hai gian hai chái, ba gian hai chái... (tương đương ba gian, năm gian, bảy gian...). Các cửa số, kể cả cửa voóng toong (cửa sổ chính) chỉ làm ở phía trước của ngôi nhà. Giữa các gian thường không có cửa một cách chắc chắn, chỉ có sự phân biệt có tính chất tượng trưng. Riêng buồng con dâu, con gái lớn, mặc dù không có cửa nhưng những quy ước bất thành văn rất chặt chẽ, được tuân thủ nghiêm ngặt rằng, ai khi nào được vào và ai khi nào không được vào.

Đặc biệt, ở bất kỳ hướng cửa sổ nào với người Mường đều được coi là thứ rất linh thiêng và là điều tối kỵ nếu phụ nữ ngồi lên cửa sổ. Cửa sổ trong tiềm thức và phong tục lâu đời của người Mường là dùng để tiễn đưa những người thân trong gia đình sang thế giới bên kia sẽ đi theo lối này.

Trước đây nhà sàn cổ sử dụng đinh gỗ, đinh tre, chêm gỗ để cố định mộng chính và dùng các loại dây leo bện để níu những mộc phụ theo hình chữ X. Hiện nay bà con nơi đây đã biết sử dụng đinh sắt để thay cho dây lạt, dây rừng có tuổi thọ không cao. Mái nhà sàn truyền thống thường được lợp bằng cỏ gianh, lá cọ nên nhà người Mường ấm áp về mùa đông, mát mẻ về mùa hè.

Người Mường xưa thể hiện sự giàu có, địa vị xã hội bằng cách làm nhà to, làm nhiều nhà. Nhà sàn của nhà lang bậc trung hồi đầu thế kỷ XX thường dài đến 100m. Với nhà lang nhỏ thường làm nhà dài 30 đến 40m, nhà dân thường có khả năng kinh tế thì thường khoảng 20m. Vì thế, nhà sàn là trung tâm trong không gian sống rất đặc trưng của người Mường.

“Màn” hay còn gọi là cầu thang thường được làm bằng gỗ hoặc nguyên thân cây gỗ tròn và tạo bậc trên chính những thân cây đó hay cũng có thể được đẽo thành hình chữ nhật. Cầu thang không dựng thẳng vào cửa chính mà dựng vào mép một cái sảnh gỗ và đặt vuông góc với chiều đòn nóc của nhà.

Trong nhà sàn của người Mường, không gian được chia theo cả chiều dọc và chiều ngang. Từ cầu thang chính bước vào phần giữa sàn nhà phía dưới bếp, phía ngoài là để tiếp khách, phía trong là nơi sinh hoạt của cả gia đình. Trong nhà, theo chiều dọc, phía trên có các cửa sổ gọi là cửa voóng, chỗ ngồi gần cửa voóng thường dành cho người cao tuổi, còn phía dưới dành cho lớp trẻ. Theo chiều ngang, phía ngoài dành cho nam giới, phía trong dành cho nữ giới.

Theo phong tục của người Mường khi làm cầu thang thì bậc thang nhất thiết phải là số lẻ và được dựng ở các thế đất khác nhau. Theo quan niệm của người Mường, số lẻ của bậc thang thể hiện ước nguyện quy luật vào - ra - vào thì của cải sẽ không đi ra ngoài, gia đình luôn được êm ấm, đoàn tụ, con cháu thành đạt. Số lượng bậc có thể là 3, 5, 7, 9… nhưng tuyệt đối không được là số chẵn.

Điều thú vị nhất trong tổng thể cách xây dựng nhà sàn của người Mường, thì đó là những kết cấu hoàn chỉnh không chỉ tạo dựng nên một ngôi nhà sàn đặc trưng từ cổ kim đến giờ vẫn nguyên vẹn. Lý thú hơn cả, là ở mỗi bộ phận cấu thành nên nhà sàn nó lại mang một ý nghĩa tâm linh sâu sắc gắn kết chặt chẽ với con người hàng nghìn năm không thay đổi.

Du lịch, GO! - Theo Dantri
Thắng cố Tây Bắc, bánh đa của Hải Phòng, cháo lượn Nghệ An, bánh canh miền Trung... là những món ăn đặc sắc có thể thưởng thức ở Hà Nội.

Với nhiều người, Hà Nội quả là một thiên đường ẩm thực. Tại đây, thực khách không chỉ được thưởng thức những món ăn nổi tiếng của đất Hà thành mà còn có cơ hội trải nghiệm nhiều món ăn đặc sắc đến từ các vùng miền khác nhau trên cả nước.

Thắng cố là món ăn đặc trưng truyền thống của người H'mông ở các tỉnh miền núi Tây Bắc. Món ăn này được chế biến từ thịt bò, thịt trâu, thịt ngựa và thịt lợn với các bộ phận như: lòng, tim, gan, tiết, thịt, xương, được cho vào chảo nước đun nhừ, có thể cho thêm các loại rau. Khi ăn, chảo vẫn để trên bếp đun, ăn đến đâu múc ra bát đến đó.
.
Tại Hà Nội, có thể thưởng thức món ăn này tại quán thắng cố Hà Thành trên đường Hoàng Quốc Việt. Cần lưu ý là món thắng cố tại đây đã được cải biên ít nhiều, chỉ tinh lọc bộ lòng ngựa và tiết ngựa thay vì "tạp phí lù" như thắng cố nguyên bản.

Bánh đa cua là một món ăn dân dã, rất phổ biến tại Hải Phòng. Một bát bánh đa hấp dẫn loại này phải hội tụ đủ ngũ màu: màu gạch cua nâu hồng, màu bánh đa nâu sậm, màu xanh mướt của lá lốt, rau muống, hành lá, chanh; màu đỏ tươi nơi trái ớt và vàng rộm của hành khô.

Màu sắc bắt mắt kết hợp với hương vị thơm ngon, béo ngậy chắc chắn làm thực khách nếm một lần sẽ không thể nào quên. Một số địa chỉ bánh đa của Hải Phòng tại Hà Nội: gánh hàng số 27 Hàng Cá, bánh đa cua bà Liên phố Lê Lợi, quán số 22 Trần Khát Chân...

Khi nhắc đến ấm thực của đất cố đô Ninh Bình, không thể không nhắc đến thịt dê núi. Thịt dê nơi đây nức tiếng ngon hơn các vùng khác bởi hai lẽ: thứ nhất, dê Ninh Bình nuôi trên núi đá, ăn các loại lá cây đa dạng nên thịt săn chắc hơn so với dê thả đồi; thứ hai, người Ninh Bình có bí quyết riêng để chế biến các món từ thịt dê.

Một số quán chuyên về dê núi Ninh Bình ở Hà Nội là Dê Núi Anh Thư ở 55 Đại Cồ Việt, quán “Hà dê” ở số 63 Phạm Hồng Thái.

Xứ Nghệ vốn nổi tiếng với nhiều đặc sản được rất nhiều người ưa thích như cà pháo Nghi Lộc, nước mắn Diễn Châu, cam Xạ Đoài, “nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn”.... và tất nhiên không thể không nhắc đến món cháo lươn, một đặc sản và là niềm tự hào của người dân xứ Nghệ.

Có khá nhiều quán bán cháo lươn Nghệ An ở Hà Nội như: số 43 Trần Hữu Tước, số 64 đướng Láng, số 112 Nghi Tàm, quán lươn đầu dốc Hoàng Quốc Việt.
Có xuất xứ từ tỉnh Quảng Nam, mỳ Quảng đã trở thành một món ăn đặc trưng của cả miền Trung Việt Nam. Sợi mì được làm bằng bột gạo xay mịn hoặc bột mì và tráng thành từng lớp bánh mỏng, sau đó thái theo chiều ngang để có những sợi mỏng khoảng 2mm. Dưới lớp mì là các loại rau sống, trên mì là thịt lợn nạc, tôm, thịt gà cùng với nước dùng được hầm từ xương lợn. Ngoài ra, trong bát mì Quảng còn có thể có thêm lạc rang khô và giã dập, bánh đa, hành lá thái nhỏ, rau thơm, ớt đỏ...

Ở Hà Nội, có thể thưởng thức mỳ Quảng ở quán Huế - Ngự Bình ở góc Láng Hạ - đường Láng, quán bánh xèo Chính Thắm trên đường Thái Hà.

Là một đặc sản của xứ Huế, bún bò Huế có hương vị rất riêng với nước dùng làm từ xương bò hầm chín có cho thêm mắm ruốc và chả lợn hay chả bò quyết nhuyễn. Thịt bò có thể xắt mỏng, được nhúng vào nước dùng đang sôi trước khi cho vào bát bún (gọi là thịt bò tái). Bún bò Huế được ăn kèm với rau sống gồm giá, rau quế, chanh, bắp chuối, rau…

Có khá nhiều quán bán bún bò Huế ở Hà Nội, nhưng phải vào đúng quán do người Huế làm thì mới cảm nhận hết vị thơm ngon của món ăn này. Một số địa chỉ đáng lưu ý: quán số 7 Thái Phiên, số  22 Hàng Hành và một quán đầu đường Phạm Ngọc Thạch.

Bánh canh là một món phổ biến ở miền Trung và Nam Việt Nam. Bánh được làm từ bột gạo, bột mì, hoặc bột sắn hoặc bột gạo pha bột sắn, được cán thành tấm và cắt ra thành sợi to và ngắn. Nước dùng được nấu từ tôm, cá, chân giò... thêm gia vị tùy theo từng loại bánh canh. Bánh được bỏ vào nồi nước dùng đã hầm vừa đủ độ và đợi cho chín tới. Gia vị cho bánh canh thay đổi tùy theo món bánh canh và tùy theo khẩu vị mỗi vùng.

Bánh canh có thể dùng kèm với cá đã róc xương, chả cá, chân giò, tôm, thịt... Các quán ở số 104 Đại Cồ Việt, ngõ 18 Huỳnh Thúc Kháng, 5D Quang Trung... là địa chỉ để thưởng thức món ăn này ở Hà Nội.

Cơm tấm Sài Gòn là món đặc sản của miền Nam Việt Nam, được nấu từ hạt gạo tấm. Khi ăn, cơm được bày ra đĩa cùng nhiều thức ăn kèm theo như sườn nướng, chả trứng, trứng ốp-la, bì và đồ chua như đu đủ, cà rốt, củ cải, dưa chuột dấm... Ngoài ra, ăn cơm tấm phải có nước mắm ngọt, là nước mắm pha với nước lọc và thêm đường.

Một số quán cơm tấm ngon ở Hà Nội: 102K1 Giảng Võ, 59 Tràng Thi, 79A Trần Hưng Đạo, 13 Lý Thái Tổ...

Du lịch, GO! - Theo báo Đất Việt

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống