Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Thursday, 7 March 2013

Nói đến Bắc Giang là nhắc tới những đồi vải ngút ngàn Lục Ngạn, những trái cam sành căng mọng Bố Hạ, rượu làng Vân lâng lâng lòng người… Và, thật thiếu sót cho những ai đã từng đặt chân qua đây mà không thử hương vị giòn tan trên đầu lưỡi, bùi bùi thơm ngọt trong miệng của chiếc bánh đa Kế.

Có rất nhiều nơi trên đất nước Việt Nam làm bánh đa nhưng bánh đa Kế luôn mang trong mình hương vị riêng. Bánh đa Kế có nhiều loại như bánh ngọt, mặn, rán… nhưng loại bánh được nhiều người yêu thích nhất là bánh nướng.

Để làm ra chiếc bánh, người dân trong làng Kế thức dậy lúc 3 giờ sáng, từ khâu chuẩn bị gạo đến công đoạn nướng đòi hỏi sự khéo léo. Nguyên liệu chủ yếu là gạo tẻ nhưng phải là gạo Q hoặc gạo di truyền (do năng suất thấp nên những năm gần đây người trong vùng không gieo trồng nữa). Gạo làm bánh phải là gạo đã để lâu cho hết nhựa, đem ngâm với nước tới khi hạt gạo căng mọng, no nước mới được. Trong quá trình ngâm phải cho thêm khoai lang thái nhỏ để tạo màu và cơm nguội để bánh nở, xốp…

Gạo được mang đi xay sao cho thật mịn không có chút gợn nào, sau đó là công đoạn tráng bánh làm sao cho bánh được tròn, đều, lúc lấy ra không bị rách. Bánh được tráng làm hai lần và cho thêm vừng để có vị béo, lạc có vị bùi. bánh tráng được phơi trên phên tre hoặc nứa khi đã đủ nắng đến mức độ nhất định của một mặt bánh thì cần phải trở bánh để đảm bảo đồng đều hai mặt. Sau đó, bánh được nướng, đây cũng là công đoạn cuối cùng để đến với người tiêu dùng. Bánh được nướng trên than hoa (than củi) nhiệt trong bếp phải giữ đều.

Đối với bánh đa Kế, một chiếc bánh đạt tiêu chuẩn bao gồm: bánh phải chín đều, mép bánh không được quá lửa và phải có độ cong. Vẫn là nguyên liệu công thức này, các làng bên cũng đã thử làm nhưng bánh đa Kế lại có sự khác biệt về hương vị, phải chăng đó là do sự khéo léo tài tình của người làng Kế.

Công việc tráng bánh thường được gói gọn đến 3 giờ chiều, thu nhập bình quân mỗi người 100 ngàn đồng/ngày. Đối với những ngày mưa mọi người phải đem bánh đi sấy, nếu trời mưa trong nhiều ngày thì công việc làm bánh chỉ có 10 ngày. Do thu nhập không ổn định, nhiều gia đình đã bỏ nghề hoặc kiếm thêm nghề phụ trong những lúc nông nhàn.

Chị Nguyễn Thị Đỗ xã Dĩnh Kế, TP.Bắc Giang cho biết: Đã có lần định bỏ nghề đi chợ buôn bán để tăng thêm thu nhập cho gia đình nhưng về sau do không quen và không nỡ từ bỏ cái nghiệp của ông cha nên chị lại quay về với nghề làm bánh đa. Tuy vất vả một chút nhưng chị cảm thấy thoải mái, thấy nghề làm bánh thân thiết hơn. Những năm gần đây, gia đình chị và nhiều hộ trong làng đã cùng nhau trồng thêm đào, tầm xuân, hoa… để phục vụ những ngày rằm và đặc biệt là Tết Nguyên đán.

Làng Kế ẩn mình sau những lũy tre già, nép mình bên dòng sông Thương hiền hòa, vẫn còn đây cây đa, mái đình, bến nước… Nhờ sự đoàn kết và phát huy truyền thống làng nghề, trong cuộc thi bình chọn sản phẩm tiêu biểu, do Sở Công thương tỉnh Bắc Giang tổ chức năm 2012 tại Bắc Ninh cùng với 26 tỉnh phía Bắc và 6 tỉnh phía Nam, bánh đa Kế đã được bình chọn và vinh danh nhận cúp.

Xã Dĩnh Kế có 11 thôn nhưng nghề làm bánh đa tập trung chủ yếu ở 5 thôn, nhiều nhất là thôn sau, kế đó thôn chợ, thôn phố, thôn chùa và thôn tiêu với 58 hộ.

Du lịch, GO! - Theo Bình An (Phunuonline), ảnh internet
Sự hấp dẫn của bảo tàng là những đồ vật phong phú về chủng loại nói lên sự thông thái, say mê nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau của Alexandre Yersin.

Ngược dòng lịch sử, tháng 7 năm 1891, chàng thanh niên người Pháp 28 tuổi Alexandre Yersin, đặt bước chân đầu tiên của mình lên bờ biển Nha Trang. Năm 1894, sau khi tìm ra vi khuẩn bệnh dịch hạch tại Hồng Kông, A. Yersin trở lại Việt Nam và quyết định ở lại đây mãi mãi. Chỉ với vài con ngựa nuôi thí nghiệm ông là người đầu tiên chế tạo ra huyết thanh đặc hiệu chống lại căn bệnh nguy hiểm này, để từ đó năm 1895 đặt nền móng xây dựng Viện Pasteur Nha Trang và Trại chăn nuôi Suối Dầu năm 1896, với mục đích nghiên cứu điều chế các loại vacxin và huyết thanh cho người và gia súc.

< Bảo tàng A. Yersin.

Nằm trong khuôn viên Viện Pasteur, số 4 Trần Phú, Bảo tàng A. Yersin tọa lạc trên tầng hai ngôi nhà phía bên tay phải của Viện Pasteur, có diện tích khoảng 100m², trong đó trưng bày một phần rất nhỏ đồ vật còn sót lại mà nhà bác học đã từng sử dụng, gần cả ngàn cuốn sách từ truyện “Nghìn lẻ một đêm” đến những tác phẩm văn học cổ điển của các tác giả nổi tiếng trên thế giới, được đóng gáy bìa cẩn thận, những bức thư viết tay của ông, những đồ vật của một con người thông kim bác cổ, một nhà bác học thông thái tất cả mọi lĩnh vực: y khoa, thiên văn, địa lý, kỹ thuật, nghệ thuật...

< Kính thiên văn trong bảo tàng.

Sự hấp dẫn của bảo tàng là những đồ vật phong phú về chủng loại nói lên sự thông thái, say mê nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau của chủ nhân. Từ những chiếc đồng hồ Leroy cổ xưa, ảnh chụp gia đình bác sĩ A. Yerin, các tư liệu bài báo, bút tích những bức thư, ăng ten phát tín hiệu morse, quả địa cầu, các dụng cụ đo điện, khoảng 500 tấm ảnh vừa trên giấy, vừa trên kính, các dụng cụ thí nghiệm... Và đặc biệt là chiếc kính thiên văn thật to ở góc trái căn phòng... Tất cả những đồ vật đó đã phần nào cho biết những hoạt động của ông khi sinh thời.

Đến Bảo tàng Yersin, ngoài việc nhìn ngắm những đồ vật đã từng gắn bó với người đã cống hiến đời mình cho khoa học mà còn để ngưỡng mộ cuộc sống của một con người vĩ đại mà đơn giản: vĩ đại về kiến thức nhưng đơn giản trong cuộc sống. Nhìn ngắm lại mô hình ngôi nhà cũ của ông, một ngôi nhà 3 tầng, 4 mặt đều có cửa, ta thấy được sự gần gũi của ông với cuộc sống người Việt Nam. Một ngôi nhà mà qua lời kể lại, ở đó ông đã cứu sống biết bao con người (Xóm Cồn) qua những cơn bão được ông đoán biết trước.

< Đồng hồ Leroy cổ xưa.

Chính giữa bảo tàng là mô hình căn phòng ngày xưa ông đã sống, chiếc giường, tủ sách, tủ gương đựng quần áo, ghế mây, những đồ vật rất đời thường nói lên một cuộc sống khiêm tốn và giản dị. Trên chiếc bàn làm việc có một máy tính được sản xuất vào năm 1920. Nhìn những đồ vật trong căn phòng này người ta có thể phần nào tái hiện lại cuộc sống của một nhà bác học tại thời điểm đó với nhiều thích thú: những đồ vật rất hiện đại thời đó và để có một so sánh với bây giờ....

Những tấm hình trên kính nhìn qua một máy chiếu, có thể thấy lại những hoạt động của ông, từ ngôi nhà thật đến công việc chuyên môn của người bác sĩ, cuộc sống đời thường gắn bó với người dân Xóm Cồn, hình ảnh người Việt Nam thời ấy, cảnh vật, cây cỏ, chim muông, những giò phong lan thật đẹp, lạ.

< Mô hình tàu buồm.

Trước khi rời bào tàng, lật lại cuốn sổ vàng lưu niệm, trong đó có bút tích của du khách từ nhiều nước trên thế giới đã đến đây và ghi lại, với tâm tình rất chân thật xuất phát từ lòng yêu quý ông, sự ngưỡng mộ thật sự. Nhìn ngắm lại một lần nữa khuôn viên Viện Pasteur, có những cây Tra cổ thụ do chính Bác sĩ A. Yersin đem giống từ Pháp qua trồng, bức tượng xi măng màu đen được tạc vào năm 1972, nhìn xa xa khỏi khuôn viên Viện, bên kia đường là biển với những con sóng êm ả vào mùa hè, gầm thét trong mùa giông bão, những con sóng đã từng chứng kiến có một người bác sĩ hàng ngày ra vô nơi này để làm việc, nghiên cứu. Biển cũng khiến người ta nhớ lại một thời Nha Trang đã có những con sóng thần rất lớn, và trong những mùa giông bão ấy bác sĩ A. Yersin đã gần gũi với dân Xóm Cồn biết bao.

< Du khách thắp nhang tại bàn thờ A. Yersin.

Cũng còn thiếu sót nếu đã đến thăm nơi lưu giữ đồ vật của bác sĩ A. Yersin mà không đến thăm ngôi mộ của ông ở Suối Dầu, cách Nha Trang khoảng 20 km về phía Nam, nằm trên Quốc Lộ 1A. Đó là một khu vực đầy cây xanh, còn là nơi nuôi ngựa để làm vắcxin của Viện Pasteur. Con đường dẫn đến mộ ông có hàng cây bạch đàn hai bên, những cây cổ thụ lớn với dây leo chằng chịt. Khí hậu nơi này quanh năm mát mẻ, gợi tưởng con đường đi đến cao nguyên Lâm Viên - Di Linh mà ông đã tìm ra cách đây hơn một thế kỷ.


< Viếng mộ A. Yersin.

Nằm trên một ngọn đồi nhỏ, yên tĩnh, chỉ có tiếng gió thổi xào xạc, ngôi mộ A. Yersin thật nhỏ nhoi và khiêm tốn như cuộc đời của ông. Cạnh mộ có một miếu thờ, bên trong có bức hình của ông với bát nhang, bình hoa, tất cả tượng trưng một điều: ông đã sống, cống hiến, gắn bó với người Việt Nam và chọn nơi này làm quê hương cho đến cuối đời. Đứng trên đồi nhìn xuống xa xa là núi, bên dưới là những cánh đồng mía, cảnh vật yên tĩnh, chỉ có tiếng chim, cây lá cựa mình… Nơi đây yên nghỉ một con người vĩ đại với những thành quả to lớn để lại cho hậu thế, ngôi mộ thật nhỏ bé, cho chúng ta ngày hôm nay đến để tưởng nhớ, thắp cho ông một nén nhang.

Tấm lòng của A. Yersin đối với Nha Trang được thể hiện qua đoạn trích trong bức thư ông viết năm 1896 từ Nha Trang cho người bạn là E.Roux: “Hãy đến đây với tôi,ông sẽ biết ở đây thú vị như thế nào, thời tiết không nóng nhiều, cũng không lạnh lắm, một khung cảnh thanh bình tuyệt đối và nhiều công việc cần làm”.

Du lịch, GO! - Theo Bình An (Phunuonline)

Wednesday, 6 March 2013

Lang Biang là đỉnh núi cao nhất cao nguyên Lâm Viên với 2.167 m so với mực nước biển, thuộc huyện Lạc Dương (Lâm Đồng), cách TP.Đà Lạt khoảng 12 km. Lang Biang là tên ghép từ câu chuyện tình của chàng K’Lang và nàng H'Biang.

Chuyện tình bi thương

Truyền thuyết kể lại rằng, chàng K’Lang (thuộc bộ tộc Lát), còn nàng H'Biang (thuộc bộ tộc Cil). Trong một lần lên rừng hái quả và săn bắt, K’Lang và H'Biang tình cờ gặp nhau. Khi H'Biang gặp nạn thì K’Lang đã dũng cảm cứu nàng thoát khỏi đàn sói hung dữ nên hai người cảm mến và yêu nhau. Nhưng do lời nguyền giữa 2 bộ tộc nên H'Biang không thể “bắt” K’Lang làm chồng.

Dù vậy, hai người vẫn quyết tâm vượt qua mọi tục lệ khắt khe để đến với nhau. Khi họ trở thành vợ chồng bị gia đình xua đuổi nên phải đưa nhau lên một đỉnh đồi thâm u kiếm kế sinh nhai.

Khi H'Biang bị bệnh, K’Lang tìm mọi cách chữa trị nhưng không khỏi. Chàng đành quay về báo cho buôn làng để tìm cách cứu nàng. Thật oái oăm, H'Biang bị chết do nàng che đỡ mũi tên có tẩm thuốc độc của buôn làng nhắm bắn K’Lang. Đau buồn khôn xiết, K’Lang đã khóc rất nhiều, nước mắt chàng tuôn chảy thành suối lớn, ngày nay gọi là Đạ Nhim (suối khóc). Tiếp đó K’Lang cũng chết. Sau cái chết của hai người, cha của H’Biang rất ân hận, đứng ra thống nhất các bộ tộc thành một dân tộc có tên là K’Ho. Từ đó, các đôi nam nữ trong làng dễ dàng đến với nhau. Lang Biang được chọn làm biểu tượng của thành phố Đà Lạt.

Chinh phục đỉnh cao

Được sự hướng dẫn của Liêng Hot Ha Sien, chặng đầu tiên chúng tôi chinh phục đồi trọc “Yên Ngựa”. Khi cách đỉnh 650 m, thử thách đến với chúng tôi khi đường lên đỉnh dốc đứng kiểu “chân người này đạp đầu người kia”. Ha Sien cho biết: “Nhờ sự giúp đỡ của Tổ chức JICA (Nhật Bản), đoạn đường này được làm bậc cấp dễ đi hơn trước nhiều rồi”. Sau 1 giờ 45 phút, toàn đoàn chúng tôi đặt chân lên “nóc nhà Đà Lạt” cao 2.167 m, diện tích đỉnh núi chỉ khoảng 50 m2. Mọi người thay nhau đứng chụp hình bên cột mốc đỉnh cao và toàn cảnh Đà Lạt.

Với những du khách không đủ can đảm chinh phục đỉnh cao 2.167 m, thì từ trạm kiểm lâm rẽ trái theo đường nhựa để lên đỉnh “ra đa” cao 1.950 mét (nơi trước đây quân đội Mỹ đặt đài ra đa quan sát). Tại đây có biểu tượng chàng K’Lang và nàng H’Biang, dịch vụ ăn uống, chụp hình; nhìn ống nhòm về TP.Đà Lạt, khu bán hàng thổ cẩm…

Nếu lười đi bộ, ở chân núi có dịch vụ xe Jeep đưa khách lên đỉnh với giá 240.000 đồng/chuyến (khứ hồi) để vượt qua những con đường dốc đứng, ngoằn ngoèo khá thú vị. Bên một triền đồi gần chân núi có “Thung lũng 100 năm” được thiết kế như một khu du lịch sinh thái, giải trí.

Khách có thể lưu lại đêm trong những ngôi nhà sàn; thưởng thức chương trình giao lưu cồng chiêng, đốt lửa trại, uống rượu cần với đồng bào dân tộc, tìm hiểu về văn hóa, tập tục của người K’Ho.

Lang Biang là khu du lịch dã ngoại, phiêu lưu mạo hiểm, khám phá thiên nhiên, văn hóa người bản địa rất thú vị.

Leo đỉnh Lang Biang
Leo núi LangBiang
Du thám LangBiang
Đỉnh Langbiang huyền thoại
Lên nóc nhà Đà Lạt

Du lịch, GO! - Theo Lâm Viên (báo Thanh Niên), internet
Nằm giữa rừng nguyên sinh thuộc Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử, thác Ba Tia (xã Tuấn Mậu, Sơn Động, Bắc Giang) trở thành điểm đến của không ít đoàn khách du lịch.

Từ thị trấn Thanh Sơn đi chừng 3 km là đến hạ nguồn thác Ba Tia. Tuy nhiên, để tới thác nước đẹp nhất, chúng tôi phải gửi xe ở nhà dân rồi tiếp tục hành trình đi bộ qua những khe đá chênh vênh hơn một giờ đồng hồ. Tại đây, du khách thoả sức khám phá thiên nhiên hoang sơ và tận hưởng không khí mát lành của dòng thác nước có màu vàng đặc trưng nằm ẩn mình sau những lớp cây rừng.

< Nguồn nước của thác từ trên núi đá đổ xuống...

Cùng đó là thử cảm giác chinh phục những ghềnh đá, thác nước cao vút nối tiếp nhau như những bậc thang. Phong cảnh nguyên sơ, không khí trong lành là lý do khiến nhiều người tìm đến đây du lịch. Xung quanh thác còn nhiều loài cây gỗ quý như: lim, sến, táu, de, dẻ, cùng nhiều loài động vật như: lợn rừng, hươu nai, sóc…

Anh Phạm Văn Phương, người dân bản địa cho biết: "Hiếm năm nào vào mùa khô thác Ba Tia lại nhiều nước như năm nay, bởi tháng trước mưa mấy ngày liền nên nước các con suối trong rừng chảy rất xiết".

< Một nhánh của thác Ba Tia.

Nhiệt độ tại đây quanh năm ôn hòa và dịu mát cộng thêm tiếng thác nước reo ầm ầm trong khu rừng nguyên sinh là lý do khiến nhiều bạn trẻ thích thú.

< Bãi đá đủ hình thù dưới suối.

Đến Ba Tia vào mùa hè, du  khách được giải nhiệt bằng cách ngâm mình trong dòng nước suối mát lạnh chảy từ các vách đá trên cao dội lên cơ thể thật sảng khoái. Ngoài ra có thể cắm trại giữa rừng, tự tổ chức nướng cá suối, nướng thịt và thưởng thức một số món ăn đặc trưng của đồng bào dân tộc thiểu số.

Ông Bàn Văn Minh, Chủ tịch UBND xã Tuấn Mậu cho biết: vào những ngày lễ, nghỉ cuối tuần, nhất là mùa hè, các bạn trẻ thường đến tham quan, thưởng ngoạn tại thác Ba Tia. Tuy nhiên, đó là những đoàn khách tự phát, nhà nước và địa phương hiện chưa tổ chức và quản lý đối với những khách này.

< Thác Ba Tia vẫn còn rất hoang sơ.

Hơn nữa đường giao thông vào khu thác Ba Tia đã xuống cấp, đi lại khó khăn. Mấy  năm trước, một số doanh nghiệp du lịch đã về khảo sát nhưng đến nay địa phương chưa nhận được sự đầu tư nào cho phát triển du lịch.

Do vậy, để thác Ba Tia phát huy hết tiềm năng và giữ chân du khách lâu hơn, chính quyền sở tại và ngành chức năng cần có những giải pháp đầu tư về cơ sở vật chất, các dịch vụ ăn nghỉ, đi lại…
Có như vậy, trong tương lai nơi đây sẽ là khu du lịch phát triển mạnh bên sườn Tây Yên Tử.

Du lịch, GO! - Theo báo Bắc Giang, vài ảnh của Nguyễn Thị Duyên.
So với Hội An, “người anh em” cùng thời ở Đàng Trong, thì phố Hiến, thương cảng quốc tế nổi tiếng vào thế kỷ 16 - 17, dưới thời Lê Trịnh ở Đàng Ngoài cũng không kém phần phồn hoa tấp nập.

Giữa bộn bề đường ngang, lối dọc công sở mới mọc lên trong cơn lốc đô thị hóa của thị xã Hưng Yên, Kim Chung Tự (chùa Chuông), nằm tách biệt dưới những rặng nhãn cổ thụ, vẫn còn "dấu xưa xe ngựa"...
Có dịp về lại nơi này, bạn sẽ thấy dưới những rặng nhãn lồng, gốc hoa gạo xù xì nở bừng hoa vào mỗi dịp tháng ba, vẫn còn “dấu xưa xe ngựa” trong đó nguyên vẹn nhất, quy mô nhất là chùa Chuông.

< Toàn cảnh chùa Chuông nhìn từ cổng vào.

Chùa Chuông là một trong những cảnh quan của phố Hiến nổi danh một thời, tồn tại tới ngày nay, bao gồm đền Mẫu Hoa Dương, Mẫu Thiên Hậu, đền Trần, chùa Phố, chùa - đình Hiến, chùa Nễ Châu, Văn Miếu Xích Đằng, Võ Miếu, hồ Bán Nguyệt, Đông Đô Quảng Hội, bia mộ của khách buôn ngoại quốc...

Chùa Chuông được xây dựng từ thế kỷ 15, dưới thời Lê. Tương truyền một năm lũ lụt lớn, một quả chuông vàng trên một chiếc bè trôi vào bãi sông Cái (sông Hồng) thuộc địa phận thôn Nhân Dục, phường Hiến Nam, thị xã Hưng Yên hiện nay. Thế là các nơi đua nhau kéo chuông về, nhưng chỉ có dân làng Nhân Dục mới làm được. Dân làng cho là trời phật giúp đỡ, bèn góp công của dựng chùa tưởng nhớ công ơn. Mỗi lần đánh, tiếng chuông vang rất xa vì thế, chùa còn có tên gọi là Kim Chung Tự (chùa Chuông Vàng).

< Chiếc cầu đá dẫn qua ao súng (mắt rồng).

Năm 1707, chùa được trùng tu lớn với quy mô hoàn chỉnh như hiện nay. Trong cuốn Hưng Yên tỉnh nhất thống chí của Trịnh Như Tấu, thời Nguyễn có ghi rằng: “Chùa Chuông - Phố Hiến đệ nhất danh lam”. Không phải ngẫu nhiên mà chùa Chuông đã hiện diện khá nhiều trong phim Mê Thảo thời vang bóng của đạo diễn Việt Linh.

Chùa Chuông là một trong những cảnh quan của phố Hiến nổi danh một thời, tồn tại tới ngày nay, bao gồm đền Mẫu Hoa Dương, Mẫu Thiên Hậu, đền Trần, chùa Phố, chùa - đình Hiến, chùa Nễ Châu, Văn Miếu Xích Đằng, Võ Miếu, hồ Bán Nguyệt, Đông Đô Quảng Hội, bia mộ của khách buôn ngoại quốc...

< Sân chùa mang lại cảm giác thanh thản.

Năm 1992, ngôi chùa này được Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật. Đây là một trong những ngôi chùa cổ kính, quy mô lớn của miền Bắc, kết cấu theo kiểu “nội công ngoại quốc”, với kiến trúc thời Lê - Trịnh từ thế kỷ 17, 18, còn hiện diện tới ngày nay.

Qua tam quan là ba nhịp cầu đá xanh được xây dựng năm 1702, bắc ngang qua ao mắt rồng. Khoảng sân rộng rãi được lát gạch Bát Tràng, chính giữa là con đường được trải đá xanh dẫn thẳng tới tiền đường. Theo quan niệm nhà Phật, đường này gọi là Nhất chính đạo, con đường chân chính duy nhất dẫn dắt con người thoát khỏi bể khổ.

Tiền đường năm gian hai chái, kết cấu kiểu con chồng đấu sen. Nối giữa tiền đường và thượng điện là khoảng sân, ở giữa có cây hương bằng đá như cột kinh đá xưa, bốn mặt khắc chữ Hán ghi công đức của nhân dân tu sửa chùa.

Thượng điện cũng gồm năm gian hai chái, kết cấu giống tiền đường, mang đậm nét kiến trúc thời hậu Lê, kết lại là gác chiêng, gác khánh được xây cao, đột khởi lên toàn bộ lớp mái chùa.

Ngoài các tượng Thích Ca sơ sinh, tòa Cửu Long, Phật A Di đà, Bồ Tát, Văn Thù, Phổ Hiền, Tam Thế... điểm đặc sắc của chùa Chuông là hệ thống tượng La Hán cùng phù điêu gỗ Thập điện Diêm vương ở hành lang hai bên. Phù điêu gỗ Thập điện Diêm Vương diễn tả cảnh nhục hình mà con người phải trải qua ở cõi âm.

Theo triết lý nhân quả của nhà Phật, sau khi từ giã cõi đời, con người phải trải qua mười cửa điện để Diêm Vương xét hỏi công và tội. Mỗi tội trạng là một hình phạt tương ứng. Cạnh đó là tượng Bát Bộ Kim Cương và 18 pho tượng La Hán trong tư thế ngồi, nét mặt rất sinh động, mỗi người một vẻ. Có thể nói, cùng với bộ tượng La Hán danh tiếng chùa Tây Phương, đây cũng là một trong những bộ tượng La Hán đẹp nhất Việt Nam...

< Hệ thống tượng La Hán, phù điêu sống động, tô đậm thêm bầu không gian thiêng liêng, cổ kính.

Một trong những hiện vật có giá trị nhất của chùa là Kim Chung tự thạch bi ký - bia đá dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 7, thời Lê Trung Hưng (1711), ghi tên người có công đức tu sửa chùa; trong đó miêu tả cảnh đẹp của phố Hiến và các phường: Hàng Bè, Hàng Sũ, Thợ Nhuộm, Cự Đệ, Hàng Thịt... mà nay chỉ còn trong dĩ vãng.

Nhờ vậy, các nhà nghiên cứu có thể đoán định có con đường thiên lý thông thương giữa phố Hiến với Thăng Long qua lại trước cửa chùa và ghi nhận đơn vị phường của phố Hiến, lúc đó đã có hai mươi phường.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ Đất Việt, Doanh Nhân Sài Gòn, Người Lao Động...
Tại chùa Minh Đức Cung (còn gọi là chùa Ông Bổn 1) xã Hoà Ân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, hằng năm tổ chức lễ hội cho vay đúc lân đường (đường ăn), mục đích tạo sự ngọt ngào vui vẻ, làm ăn ngày càng phát đạt cho bà con trong năm.

< Lân đường hình tháp tại chùa Minh Đức Cung.

Tục cho vay lân đường không biết có tự bao giờ. Ông Trương Văn Điều, 63 tuổi, Phó Ban Trị sự Minh Đức Cung, cho biết, đúc lân đường là người ta nấu đường cát đổ vào khuôn tạo hình các con vật như: lân, gà, cái tháp, trái đào…

Hình ảnh các con vật có ý nghĩa riêng: Con lân sẽ là may mắn, làm ăn suôn sẻ trong năm. Con gà tượng trưng cho chăn nuôi, người dân muốn phát huy trong chăn nuôi thì thỉnh con gà. Các gia đình khá giả thường thỉnh cái tháp với ước mong sẽ xây nhà cao tầng. Một số bà con thỉnh trái đào nói lên những điều tâm linh có sự chứng giám của Phật, tạo hoà khí trong gia đình.

Theo thông lệ, sáng ngày 15 tháng giêng âm lịch, chùa tổ chức cúng cầu an xong thu nợ cho vay lân đường năm cũ, lấy phiếu vay mới tùy theo ước nguyện của bà con mà trao lân đường. Chùa có nhiệm vụ vô bọc, có thẻ tên chùa trước khi cho vay vật phẩm đưa vào bàn Phật cúng, sau đó chùa phát hết mới thôi. Bà con rất cẩn trọng khi mang về nhà, thỉnh nhiều họ phải lót rơm, lót trấu, đóng thùng.

Theo niềm tin, bà con không để sứt, mẻ hay bị bể, sợ trong năm làm ăn không suôn sẻ. Bà con thỉnh lân đường thường để thờ bàn Phật hay thần tài. Đến năm sau bà con dùng con lân đường đó nấu nồi chè cả nhà cùng ăn và tiếp tục thỉnh lân đường mới. Nhiều người ở tận TP Hồ Chí Minh cũng xuống chùa Minh Đức Cung thỉnh lân đường.

Hiện nay ở ĐBSCL có ba nơi đúc lân đường là chùa Minh Đức Cung Cầu Kè, Sóc Trăng và Cư sĩ Lâm Minh Nguyệt Cần Thơ.

Mỗi nơi dùng mỗi màu riêng biệt. Cầu Kè dân chúng thích màu tím sen nên lân đường pha màu tím. Sóc Trăng pha màu vàng. Cần Thơ pha màu trắng trên đầu có chấm đỏ. Lân đường có hai dạng đặc ruột và bọng ruột, nhưng mỗi con thấp nhất cho vay giá 40.000 đồng và cao nhất giá 60.000 đồng. Mỗi năm đúc một lần khoảng 200 con.

Đúc lân đường là nghề cha truyền con nối. Chùa Minh Đức Cung mỗi năm phải rước thợ ở TP Hồ Chí Minh về đúc. Khuôn đúc gồm 3-4 thanh gỗ ráp lại, trong khuôn có nhiều hoa văn vừa tinh xảo vừa tỉ mỉ, những người thợ này phải đặt hàng ở Bạc Liêu. Giá khuôn đúc mỗi cái từ 500.000-2.000.000 đồng.

Để nấu đường, họ dùng lò khè và hơi dầu lửa tạo nhiệt độ cao khi nấu, luôn tay điều chỉnh lửa để đường nóng nhiều, nóng ít. Một nồi khoảng 3 kg đường cát trắng khi sôi gần tới pha màu vào. Nhờ đôi mắt tinh tường, mũi thính của mình mà người thợ đúc nhận biết mùi thơm khi đường tới độ là tắt lửa liền, nhắc xuống đổ vào khuôn. Khi đổ xong, họ rửa khuôn ngay. Đường có gió là khô cứng, tránh đường non thường bị bể.

Theo bí quyết nhà nghề, những con lân đường của các thợ nấu này để đến 1 năm không hư bể và không thấy kiến bu lại*. Hiện nay các thợ nấu ở TP Hồ Chí Minh chỉ còn đếm trên đầu ngón tay. Mỗi năm đến tháng giêng, các chùa ở tỉnh mời họ mới đi nấu. Anh Âu Kim Tuấn, 36 tuổi, lúc 10 tuổi đã theo cha đi nấu lân đường, cho biết, hiện ở gia đình anh chỉ có hai nhà là nhà cô ruột và nhà anh của anh còn giữ nghề gia truyền (ở phường 1, quận 6, TP Hồ Chí Minh).

Vay lân đường không chỉ là lễ hội mang ý nghĩa tâm linh, thiêng liêng, đem lại niềm tin cho bà con mà còn góp phần phát triển du lịch vùng đất Cầu Kè này.

* Màu sặc sỡ, kiến không bu - không biết người là pha màu và đường gì nhỉ?

Du lịch, GO! - Theo Phước Hưng (Cà Mau Online)

Tuesday, 5 March 2013

Từ trung tâm Hà Nội, chỉ cần hai giờ đồng hồ chạy xe máy, bạn đã đến được với thác Mặt Trời quyến rũ nhờ vẻ đẹp thiên nhiên thuần khiết.

< Đường đi với những khúc cua uốn lượn quanh núi.

Thác Mặt Trời còn có tên là thác Đại Sao thuộc xóm Võ Khang, xã Kim Tiến, cách khu du lịch suối khoáng Kim Bôi, Hòa Bình chục cây số. Nơi đây được mệnh danh là chốn bồng lai tiên cảnh bởi mây phủ quanh năm, dòng suối uốn lượn hiền hòa, không khí se lạnh, thác tung bọt trắng xóa và đặc biệt chưa có bàn tay cải tạo của con người.

< Mây bay ngang triền núi, màu xanh mát của đồng lúa khiến tâm hồn vô cùng thư thái.

Gọi là khu du lịch sinh thái nhưng thác Mặt Trời vẫn còn nguyên sơ chưa có bất kỳ một dịch vụ nào phục vụ du khách, con đường dẫn tới thác phải men theo đường mòn hoặc đi đường suối trèo qua các phiến đá lớn nhỏ.

< Những dải mây trắng bông là là quấn quýt lấy triền núi, phía dưới nước suối xanh ngắt.

Thác Mặt Trời khởi nguồn từ rừng già Thượng Tiến quanh năm mây phủ gồm 2 thác chính và một thác phụ: thác đầu tiên dài chừng 60m ở lưng chừng núi đồi Thung, bọt tung trắng xóa. Tiếp đến là thác Vồng Han nước chảy quanh năm không ngừng nghỉ.

< Dòng suối Võ Khang nước trong mát.

Dòng suối Vó Khang kéo dài lên rừng đặc dụng Thượng Tiến, quanh co uốn lượn hiền hoà, ấp ôm sườn núi, gột rửa nghìn năm tạo nên những phiến đá muôn hình van dạng, có hàng trăm hòn đá lớn nhẵn lỳ như những tấm phản, là nơi nghỉ chân ngắm nhìn mây xanh bay ngang trời, hay nằm thư thái lắng nghe tiếng cá đớp lao xao; lại có cả những lớp đá lô nhô như kẻ đứng người ngồi.

< Những phiến đá muôn hình vạn trạng dọc theo dòng suối dưới chân núi.

Theo người bạn là dân bản địa xứ Mường Động dẫn chúng tôi đi cho biết: thác Mặt trời là thác chính, cao ở lưng chừng núi Thung. Ngoài ra còn có thác 1, thác 2 , để đi hết ba tầng thác này phải mất hai ngày đi bộ đường rừng và leo suối, muốn đi được vậy phải thủ sẵn cơm nắm chống đói để qua đêm trên rừng.

< Nơi lý tưởng để tịnh tâm ngồi thiền giữa núi rừng.

Cung đường đi từ Hà Nội đến thác Mặt trời cũng có những khúc cua không kém đường đi Tam Đảo hay thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên, đòi hỏi tay lái phải chắc và nhanh mắt để quan sát.

< Địa thế lý tưởng để ung dung ngồi câu cá suối.

< Một con thác nhỏ đang róc rách chảy.

Hai bên đường một bên cây cối rừng núi um tùm, một bên đồng lúa xanh mát. Đi đến khúc cua rẽ vào huyện Kim Bôi, những tay lái chúng tôi sung sướng tận hưởng không khí mát mẻ, trong lành, nghe tiếng chim hót thấy tâm hồn thư thái, sảng khoái vô cùng.

< Phải mím chặt tay chân để bò qua các tảng đá lớn.

Trên đường đến thác, chúng tôi phải đi bộ qua một cánh rừng rồi lội suối. Chạm chân xuống dòng suối Vó Khang mát lạnh tê cả chân, thỏa mắt với nước suối trong vắt chảy qua những tảng đá lớn nhỏ muôn hình vạn trạng. Có những phiến đá tảng to, trơn và phẳng lỳ có thể ngồi thiền thả hồn vào thiên nhiên, hay nằm nghỉ ngắm trời đất, mây xanh bay qua tầm mắt.

< Thác 1 là một trong 3 thác chính ở khu du lịch sinh thái thác Mặt trời tung bọt trắng xóa.

Với những du khách như chúng tôi, không quen lội suối, những tảng đá này trơn trượt rất khó đi, nhiều khi phải xách dép, phải bò, mím mười đầu ngón chân, ngón tay vào đá để di chuyển. Bởi chỉ cần bất cẩn, những hòn đá trơn trượt sẽ làm chúng tôi ngã theo dòng nước xiết bất cứ lúc nào. Nhưng với những người dân Mường Động, những tảng đá nguy hiểm ấy là địa điểm lý tưởng để ngồi câu hay đâm cá suối cho bữa cơm chiều.

< Dưới chân thác nước xanh như ngọc.

Đến xứ Mường Động, lũ phượt bụi chúng tôi không chỉ được leo thác mà còn được ăn bữa cơm với người bản địa. Bữa cơm được chế biến từ “đặc sản siêu sạch” tại gia như gà đồi, măng nứa, xôi ngũ sắc, cá suối, rau muống luộc…

< Cảm giác sảng khoái giữa rừng xanh thác chảy.

Nơi này dù chưa được nhiều người biết đến, nhưng hy vọng những du khách khi đến nghỉ dưỡng ở Suối khoáng Kim Bôi sẽ ghé qua thác Mặt trời để khám phá chốn bồng lai tiên cảnh một lần cho biết.

< Bữa cơm thanh đạm với những món ăn từ núi rừng.

Phần khác, bước chân lội suối Vó Khang như lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh. Được lắng nghe, tận hưởng hơi thở đậm chất thiên nhiên thuần khiết, đắm mình trong những sự tích huyền hoặc của người Mường Động, mới hiểu vì sao nơi đây lôi cuốn biết bao du khách xa, gần.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ iHay, Tri Thức Việt
Đã đến Bắc Giang, ghé thăm làng Đa Mai (xã Đa Mai, TP Bắc Giang) các bạn đừng quên thưởng thức món bánh tro dân dã, giản dị nhưng mang đậm hương vị dân tộc ở nơi đây.

Đa Mai là vùng đất có nhiều món ăn dân tộc, dân dã nhưng khó quên trong lòng du khách, nổi tiếng nhất phải kể đến bún Đa Mai. Nhiều người sành ẩm thực không thể không biết đến làng bún nổi tiếng của xứ Kinh Bắc xưa. Và nói đến các loại bánh thì chẳng bỏ qua được món bánh tro (còn gọi bánh gio) giản dị, mang đậm hương vị quê hương.

Bánh tro được làm từ những nguyên liệu đơn giản, bằng gạo nếp và tro của một số cây sẵn có ở vùng đất này như rơm nếp, củ chuối phơi khô, cây tạp nhạp…

Nguyên liệu đơn giản nhưng để hoàn thành một mẻ bánh lại cần sự công phu và khéo léo của người làm bánh.

Gạo nếp cái hoa vàng được đãi sạch, nhặt bỏ sạn, gạo tẻ lẫn trong đó rồi để ráo. Những cây tạp nhạp, rơm khô… được phơi khô đốt lấy tro. Dùng tro đó pha với vôi để lắng lại rồi lấy nước trong. Khi cho vôi người làm bánh phải hết sức để ý, nếu cho nhiều vôi quá bánh sẽ bị nồng, mất ngon.

Nước tro phải có màu vàng hổ phách bánh trông mới ngon và bắt mắt. Sau đó cho gạo đã đãi sạch vào ngâm qua một đêm, vớt ra, để ráo. Lá gói bánh thường được dùng lá dong hoặc lá ỏng. Lá mang về rửa sạch, để ráo. Sau đó người làm bánh phải thận cẩn thận, khéo léo cho gạo vào lòng chiếc lá sao cho gọn, đều rồi quấn lá và bẻ mép lá ở hai đầu bánh cho thật khít, thật đều và cân đối.

Dây cuốn bánh thường dùng dây lạt, buộc bánh không chặt quá, để khi luộc hạt gạo nở đều. Trong quá trình chuẩn bị nguyên liệu và gói bánh người làm bánh luôn tránh để mỡ dây vào, nếu không khi luộc bánh sẽ không rền, hỏng mẻ bánh. Bánh gói xong xếp vào nồi luộc 5-6 giờ là được.

Bánh tro luộc chín, bóc từng lớp vỏ ngoài thấy hiện lên một màu vàng nâu, trong như hổ phách, chưa cần thưởng thức cũng đã quyến rũ người ăn. Bánh tro thường được chấm với nước mật hoặc với đường. Cắn một miếng thấy được vị thanh mát, dẻo thơm của hạt gạo quyện lẫn với vị ngọt của đường, cảm nhận được sự tài hoa, khéo léo của những người thợ làm bánh.

Ngày nay, nhiều nơi cũng làm bánh tro như một món quà quê dân dã, nhưng để thưởng thức một chiếc bánh tro ngon dẻo thơm, bắt mắt ngay từ cái nhìn đầu tiên với màu vàng óng, trong như hổ phách thì chỉ có ở Đa Mai. Có lẽ người dân ở đây còn mang trong mình một bí quyết riêng thì mới có thể làm ra những chiếc bánh thơm ngon như vậy. Đơn sơ, giản dị nhưng bánh tro Đa Mai nồng ấm tình người như chính con người nơi đây.

Du lịch, GO! - Theo Hoàng Hân (báo Tuổi Trẻ), internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống