Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Sunday, 14 April 2013

Nhà địa lý nổi tiếng Lê Bá Thảo đã từng đánh giá khối núi đá này rộng đến 10.000 km², nằm vắt vẻo trên đỉnh Trường Sơn, nơi có đường biên giới Việt - Lào cắt qua. Phần phía Việt Nam, nơi có di sản thế giới Phong Nha - Kẻ Bàng, chỉ chiếm non nửa, phần còn lại thuộc Lào.

Khối núi đá vôi khổng lồ này còn rất hoang sơ, hầu như không có điểm quần cư của con người. Không có đường đi dù là đường mòn. Việc nghiên cứu địa chất hay lâm học chủ yếu được thực hiện trên ảnh hàng không và ảnh vệ tinh. Cũng không có dòng sông hay suối nào lộ mặt, không có mặt bằng nào đáng kể.

Gần chục nghìn kilomét vuông đá tai mèo lởm chởm, chỉ có ven rìa mới xuất hiện các thung lũng suối nhỏ bao quanh bằng những vách dựng dứng. Độ cao trung bình của khối núi này là 800 mét, đôi chỗ nhô lên những ngọn núi cao trên nghìn mét, cao nhất là đỉnh Phu Et Va (1.512m).

Đá vôi của khối núi Kẻ Bàng có tuổi địa chất từ 380 triệu đến 240 triệu năm. Trải qua nhiều biến động địa chất, đá bị gãy vỡ, rạn nứt, tạo điều kiện cho nước xâm thực, hòa tan thành vô vàn dạng địa hình karst: những thung lũng, phễu, giếng, hố karst, những hang động ngầm khô hay có nước đủ loại kích cỡ. Vùng Kẻ Bàng lại có lượng mưa khá lớn, khoảng 3.000 mm mỗi năm. Phần lớn lượng nước này đổ vào các hang động ngầm, mà Phong Nha chỉ là một trong vô số các hang động đó.

Ở gần cửa động Phong Nha, các nhà địa chất đã tìm ra những hóa thạch thực vật thân gỗ, thuộc các nhóm thực vật cạn đầu tiên trong lịch sử trái đất có tên là thực vật Lộ trần (Psylophyta) và thực vật Cây vảy (Lepidophyta).

Những dạng thực vật cạn này cho thấy đã từng tồn tại một lục địa rất cổ mà đá vôi vùng Kẻ Bàng là những thành tạo biển tiến nằm ở ven rìa lục địa này. Có thể thấy dấu ấn của thành tạo ven rìa lục địa đó qua hình ảnh tầng đá vôi dày đến 4.000 mét của khối Kẻ Bàng, giống như một tấm nệm đá khổng lồ, phủ bên trên các đá kiểu cung đảo núi lửa (giống như các quần đảo Nhật Bản hay Philippines ngày nay).

Nhiều nhà khoa học từ lâu cũng đã nghi ngờ rằng mảng lục địa trên là một mảnh vỡ của lục địa Australia, bị trôi giạt về phía bắc. Bằng chứng cho giả thuyết đó là tại vùng Quy Đạt, huyện Minh hóa, Quảng Bình, vào những năm 1980, các nhà khoa học đã phát hiện thấy một loài động vật Tay cuộn hóa thạch Australia 30 triệu năm tuổi. Đó là loài Veervesia suchana, có quê quán ở vùng Fitzoy phía tây bắc Australia.

Ngoài những giá trị về địa chất, vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng còn có các quần thể động, thực vật được bảo tồn khá tốt mà nhiều vùng khác đã ít hay không còn được gặp nữa. Do đặc thù là rừng nhiệt đới trên núi đá vôi, nên ở đây có rất nhiều loài động thực vật lạ, quý hiếm, như sến mật, kim giao, trầm hương, dương xỉ thân gỗ, cu li, bò tót, mèo rừng, cheo cheo Nam Dương…

Một số nơi trong vườn có những khu rừng rộng hàng trăm hecta chỉ thuần một vài loài cây như lát hoa, lát da đồng. Ở đây còn có thể gặp những đàn khỉ vàng hàng trăm con, hay vào mùa sinh sản của rắn, có thể thấy hàng trăm con rắn đen quấn bện vào nhau trong những hốc đá vôi nhỏ hẹp...

Trong một vài buồng đá ở động Phong Nha, còn gặp di tích các miếu thờ thần với những bài văn khắc trên đá bằng chữ Chăm cổ. Đây chắc chắn chưa phải là chứng tích cổ duy nhất của con người ở vùng đất này, bởi vì thế giới hang động ở vùng Kẻ Bàng còn chưa được khám phá hết.

Thắng cảnh nổi tiếng động Phong Nha thực ra gồm hai động: động khô (Lâu đài Vua) và động ướt (Thủy tề Tiên).

Động được đánh giá là có 7 cái nhất: hang nước dài nhất, cửa hang cao và rộng nhất, bãi cát và đá rộng và đẹp nhất, hồ ngầm đẹp nhất, thạch nhũ tráng lệ và kỳ ảo nhất, dòng sông ngầm dài nhất Việt Nam (13.969m) và hang khô rộng và đẹp nhất.
Riêng động Phong Nha do một con sông ngầm tạo thành, nhiều đoạn có những hồ nước và bãi bồi rộng lớn. Động chính gồm 14 buồng nối liền bằng một hành lang dài đến 1.500m. Toàn bộ động nằm sâu dưới đỉnh núi 800-900 m.

Du lịch, GO! - Theo Khoa học và Đời sống, ảnh internet
Đầm Nha Phu (cách thành phố Nha Trang khoảng 20 km về phía bắc) là một điểm du lịch hấp dẫn của tỉnh Khánh Hòa bởi những bãi tắm tuyệt đẹp và những hòn đảo thơ mộng ngoài khơi xa.

< Bình minh trên đầm Nha Phu.

Từ điểm xuất phát ở cầu cảng Đá Chồng, chiếc tàu du lịch lướt qua những con sóng nhấp nhô xanh thẳm, đưa du khách đến Hòn Thị. Nơi đây còn nguyên vẹn vẻ hoang sơ với những rừng cây rậm rạp, nhiều lòai động vật hoang dã và những thung lũng mang nhiều câu chuyện huyền bí.

Biển Hòn Thị quanh năm lặng sóng, êm như mặt hồ. Nước biển xanh trong suốt như pha lê, là nơi sinh sống của hàng trăm loài sinh vật biển. Ven bờ rải rác những dãy đá hoa cương trắng hồng, lấp lánh dưới nắng như kim cương. Tất cả tạo cho Hòn Thị vẻ đẹp quyến rũ và thanh bình...

Trên Hòn Thị có các khu chăn nuôi đà điểu và nhiều loài thú khác như hươu, nai, gấu, khỉ, chim cảnh…Các khu “Thảo cầm viên” tự nhiên này rất hấp dẫn du khách. Tại đây, bạn có cơ hội ngồi trên lưng những chú đà điểu châu Phi cao lớn, dạo một vòng quanh sân hay “giao lưu” với đàn hươu sao, nai rừng… bằng cách cho chúng ăn bắp, đậu phộng hay chỉ là một nhánh cây…

Rời Hòn Thị, 15 phút sau, du khách sẽ đặt chân lên Hòn Lao. Điểm hấp dẫn của Hòn Lao (còn gọi là đảo Khỉ), là đàn khỉ hơn 800 con sống tự nhiên, dạn dĩ và thân thiện với con người. Bạn sẽ được chứng kiến cảnh đàn khỉ tranh giành thức ăn, đánh đuổi nhau hoặc những bà mẹ khỉ vừa ẵm con, vừa thoăn thoắt chuyền cành. Sự thông minh, lém lỉnh của đàn khỉ sẽ đem đến cho du khách những tràng cười sảng khoái.

Tiếp đó, bạn có thể dạo chơi quanh các công viên chim cảnh, công viên Thanh Long, Thiên Long…chiêm ngưỡng những hình tượng nghệ thuật được bố trí khá công phu như rồng, phượng, chim công… trong không gian ba chiều. Vườn tượng Tam Đa với thầy trò Tôn Ngộ Không và các tượng nghệ thuật 12 con Giáp cũng là những công trình độc đáo.

Bãi tắm Hòn Lao với bãi cát trắng phau hình cánh cung và mặt nước xanh màu ngọc bích. Được chắn bởi những dãy núi ngoài xa, biển ở đây luôn lặng sóng. Vì vậy, tắm biển Hòn Lao là thú giải trí được nhiều người lựa chọn. Ngoài ra, du khách còn tham gia các trò vui chơi, giải trí khác như đua thuyền trên biển, cưỡi ngựa, câu cá trên các ghềnh đá, cưỡi voi dạo rừng nguyên sinh, lặn biển ngắm san hô…
Đặc biệt nhất là thưởng thức các tiết mục xiếc đặc sắc của các “diễn viên” thú: voi tặng hoa, gấu đi thăng bằng, khỉ đạp xe, giã gạo, chó nhảy vòng…

Du lịch, GO! - Theo Giao Thủy (Báo Phụ Nữ), internet

Saturday, 13 April 2013

Đến với núi rừng Trường Sơn hoang dã thuộc huyện Đông Giang (Quảng Nam), bạn sẽ được thưởng thức các món ăn chế biến từ con mối cánh (cláp). Đó là món ăn ưa thích, hấp dẫn của đồng bào Cơ Tu.

Già Mạc Thị Gách (87 tuổi), là “chuyên gia” “gọi mối” đất ở thôn Tống Coói (xã Ba- Đông Giang) cho biết: “Gần như toàn bộ số gia đình người Cơ Tu ở đây đều biết “gọi mối về”.

Mùa bắt mối diễn ra từ tháng 3- 8 (âm lịch) hàng năm. Khi mối xuất hiện, bà con tranh thủ bắt mối đất để rang ăn chơi, hoặc rang xong giằm nước mắm hoặc giã với muối ăn với cơm hoặc nấu cháo (cláp p’chơ)… đều thơm ngon.

Nhà tôi, có đêm mối ra bắt trên 5 ký mối, cái thì phơi khô, cái thì rang ăn liền. Khi rang bỏ ít muối để trong ống lồ ô, gác trên giàn bếp ăn dần. Người con rể Cơ Tu hiếu thảo thì thường xuyên nấu cho bố mẹ vợ món cháo ”cláp p’chơ” này vì những người già chúng tôi đều đau răng, rụng răng, món này dễ húp…”.

Già Gách cho hay, nếu không có đèn điện, khi phát hiện có mối đang bay ra, chúng tôi thắp một cây đèn dầu hoặc đèn cầy, cắm giữa cái thau lớn đặt ở nơi thuận tiện ngoài sân, trong thau đổ nước ngập 1/4 cây đèn.

Mối thấy ánh sáng cùng nhau bay đến, sà xuống gặp nước, ướt cánh không bay lên được, nên nằm lại trong thau. Thỉnh thoảng, mình lấy tay khuấy nước trong thau để mối ướt cánh không bay lên được. Nếu thấy trong thau nhiều mối quá thì hốt mối ra bỏ vào bao nilon hoặc xoong, nồi, thùng, mủng…

Công đoạn bắt mối chỉ diễn ra khoảng nửa giờ là kết thúc, lúc này mối đã ít dần, chúng bị rụng cánh và rơi dần ở chung quanh khu vực. Sau khi kết thúc cuộc bắt mối, người ta dùng nước sạch rửa mối nhẹ nhàng nhiều lần cho sạch và vớt ra một cái rá nhựa để cho ráo nước…

Mối đang bắt còn nguyên cánh mỏng, thân dài khoảng 1cm, bụng lớn bằng sợi bún tươi, có viền đen quanh thân màu vàng nâu, ngực và đầu nhỏ hơn.

Bà A lăng Thị Nhá (58 tuổi), ở thôn Tà Lâu, xã Ba (Đông Giang) cho biết: “Mối rang là món ăn ngon miệng, hấp dẫn đối với đồng bào Cơ Tu và một số người Kinh. Muốn ăn, người ta đặt chảo lên bếp, chờ nóng đều, bỏ vài bát mối này vào và dùng đũa khuấy đều, mối bốc hơi và khô dần… cho đến khi từ chảo bay ra một mùi thơm quyến rũ, ngào ngạt, mang hương thơm mùi châu chấu nướng và những tiếng nổ lẹt đẹt nho nhỏ, báo hiệu mối đã chín rồi.

Lúc này, đổ ra mẹt, lấy các ngón tay đảo nhẹ và sảy, hay bật cái máy quạt cho cánh mối bay đi, chỉ còn lại thân mối vàng ươm. Người Cơ Tu ngoài rang mối để “ăn chơi” ra, họ còn giã nát nén lại thành bánh để ăn dần. Khi rang mối họ thêm vào ít muối và cất trong ống lồ ô để dành ăn lai rai và hương vị cũng không kém phần ngọt ngào.

Đặc biệt là món cháo mối ăn rất thơm ngon được chế biến như sau: Nấu cháo gạo hay sắn tươi chín, cho tiếp mối đã rang vào nồi, chờ sôi lại rồi nêm gia vị cho vừa ăn. Bát cháo mối với màu nâu của mối, màu trắng của cháo ăn có mùi thơm rất đặc trưng, bổ dưỡng...

Không gì thú vị bằng khi được thưởng thức hương vị thơm lừng, beo béo và ngọt bùi… của món mối cánh rang, có thêm vài ly rượu tà vạt, rôm rả trò chuyện cùng với người già, lũ trẻ. Gương mặt của họ cũng hồng lên, lấp lánh bên bếp lửa hồng.

Du khách qua đây trong mùa mối cánh, nếu đã một lần thưởng thức cái hương vị thơm ngon, độc đáo của món cháo mối ở Trường Sơn này thì không thể nào quên được.

Du lịch, GO! - Theo Hòa Vang (Vĩnh Long Online)
Lâu nay, giới chơi cổ vật thường nhắc đến một dòng gốm cổ với nhiều nét riêng độc đáo có nguồn gốc từ làng Quảng Đức, một làng nghề nằm bên bờ sông Cái thuộc xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.

Làng gốm nơi ngã 3 sông

Làng Quảng Đức cách thành phố Tuy Hòa khoảng 30km về phía bắc và cách quốc lộ 1A khoảng 1km về hướng đông. Làng Quảng Đức nằm quay mặt ra ngã ba sông Cái và sông Hà Yến, lưng tựa vào một ngọn núi thấp mang một cái tên khá lạ là núi A Man.

Đây là một làng được hình thành từ lâu đời, địa bạ lập dưới thời Gia Long cho biết Quảng Đức xưa là làng Bạc Mã thuộc huyện Đồng Xuân. Hiện nay tại làng Quảng Đức còn lưu giữ nhiều dấu tích kiến trúc cổ. Đó là dấu tích Văn Thánh miếu thờ  Khổng Tử, là chùa Châu Lâm được lập cách đây khoảng 300 năm.

Còn trên sườn phía tây của núi A Man ở sau làng Quảng Đức có một khu nghĩa địa cổ với hàng ngàn ngôi mộ mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây là một trong những khu nghĩa địa cổ lớn nhất ở miền Trung. Làng Quảng Đức cũng là quê hương của hòa thượng Liễu Quán. Sách Lịch sử Phật giáo cho biết hòa thượng sinh ở làng Bạc Mã vào năm 1667, lên sáu tuổi xuất gia quy y Phật pháp rồi trở thành bậc cao tăng đã khai sơn chùa Thuyền Tôn ở Huế, đồng thời cũng là người khai sinh dòng thiền Lâm Tế - Liễu Quán rất thịnh hành ở Đàng Trong vào các thế kỷ XVIII, XIX.

Những bằng chứng tìm thấy qua các đợt khảo sát tại làng Quảng Đức cũng như một số di tích cổ ở Phú Yên đã cho thấy ít nhất làng gốm ở Quảng Đức cũng được hình thành vào khoảng thế kỷ XVII, XVIII. Sự ra đời và phát triển nghề gốm ở Quảng Đức gắn liền với vị trí địa lý cũng như tiến trình lịch sử của khu vực hạ lưu sông Cái.

Cuối thế kỷ XVI, Lương Văn Chánh theo lệnh của Nguyễn Hoàng đã đem lưu dân đến khai phá các vùng đất rộng lớn nằm giữa đèo Cù Mông và đèo Cả. Đó là các vùng đất dọc theo các con sông lớn như Cù Mông, Bà Đài (hạ lưu sông Cái), Bà Diễn (hạ lưu sông Đà Rằng), Bà Nông (hạ lưu sông Bàn Thạch).

Vùng hạ lưu sông Cái, nhờ đất đai màu mỡ rất thuận lợi để sản xuất nông nghiệp, là điều kiện quan trọng để hình thành các điểm tụ cư và nhanh chóng phát triển thành các xóm làng đông đúc, trù phú như Tiên Châu, Hội Phú, Bạc Mã, Long Uyên… Cũng chính vì thế mà đến năm 1629, khi phủ Phú Yên được thiết lập thì vùng đất hạ lưu sông Cái trở thành trung tâm về chính trị, văn hóa của vùng đất Phú Yên trong suốt hơn 2 thế kỷ. Dấu tích còn lại của thời kỳ đó là các tòa thành cổ tồn tại cho đến nay như thành Hội Phú - thủ phủ của Phú Yên từ năm 1629 đến năm 1836, thành An Thổ - thủ phủ của Phú Yên từ năm 1836 đến năm 1899.

Ở khu vực này, bên cạnh sản xuất nông nghiệp, đã hình thành một số làng nghề thủ công để phục vụ các nhu cầu thiết yếu của mọi tầng lớp cư dân. Đó là các nghề dệt lụa, làm muối, làm gốm, làm giấy, nung vôi… Đến nay, phần lớn các nghề trên đã không tồn tại nhưng ảnh xạ của nó vẫn còn lưu lại qua tên gọi của các địa danh như Diêm Điền, Phường Lụa, Lò Gốm, Lò Giấy, Lò Vôi…

Làng Quảng Đức nằm ở một vị thế rất tiện lợi về mặt giao thông. Xưa kia, đường thiên lý sau khi vượt sông Cái ở bến đò Cây Dừa đã đi qua làng Quảng Đức rồi tiếp tục xuôi về Nam. Còn đường thủy, từ Quảng Đức xuôi theo dòng sông Cái đi về phía hạ lưu là ra đến cửa Tiên Châu và vịnh Xuân Đài, đó đều là những thương cảng cổ. Theo dòng Hà Yến là vào đầm Ô Loan, nơi có loại sò huyết ngon nổi tiếng “cá mòi Phan Thiết, sò huyết Ô Loan”. Cũng từ Quảng Đức theo dòng sông Cái đi về phía thượng nguồn là đi vào vùng đất rộng lớn phía tây của Phú Yên và một số tỉnh Tây Nguyên. Sự thuận lợi về mặt giao thông đã góp phần đưa các sản phẩm gốm Quảng Đức giao thương đến nhiều vùng miền khác nhau, đồng thời cũng là nhân tố thúc đẩy nghề làm gốm ở Quảng Đức có thêm điều kiện để phát triển. Gốm Quảng Đức đã được tìm thấy ở những nơi rất xa xôi trên vùng đất Tây Nguyên hay cả một số vùng ở Nam bộ.

Gốm Quảng Đức một thời vang bóng.

Sản phẩm gốm Quảng Đức có nhiều loại như vò, chậu, ché, bình vôi, đèn dầu… với nhiều kích cỡ khác nhau. Có loại chỉ cao khoảng 5 – 10cm, nhưng cũng có loại rất lớn. Chẳng hạn như loại chậu trồng bông hoặc ang đựng nước nhiều chiếc có đường kính miệng từ 1m – 1,2m, cao từ 50cm – 70cm. Gốm Quảng Đức được chế tác bằng nhiều kỹ thuật khác nhau như kỹ thuật dùng bàn xoay, kỹ thuật đắp con chạch hoặc làm bằng khuôn. Trong đó, những loại sản phẩm có kích thước nhỏ được làm bằng bàn xoay; loại sản phẩm được lớn làm kiểu đắp con chạch; loại sản phẩm có kích thước trung bình chủ yếu được làm bằng khuôn. Kỹ thuật làm gốm bằng khuôn tạo ra từng bộ phận sau đó gắn chắp lại để thành sản phẩm hoàn chỉnh. Một số loại hoa văn cũng được làm bằng khuôn sau đó áp lên sản phẩm tạo thành các mảng hoa văn nổi với nhiều mô típ sống động, tinh tế.

Một số sản phẩm gốm Quảng Đức là đồ gốm tráng men. Men gốm Quảng Đức được làm từ sò huyết đầm Ô Loan có màu xanh đậm và rất bóng, nhưng đáng chú ý là trên các sản phẩm tráng men đều còn có dấu vỏ sò. Một số nhà nghiên cứu cho rằng thợ thủ công ở Quảng Đức đã chất vỏ sò xung quanh sản phẩm khi nung để tạo men, tức là tạo men bằng kỹ thuật nung chảy trực tiếp.
Quả thật, nếu ý kiến trên đây là chính xác thì kiểu tạo men trên sản phẩm ở Quảng Đức là kỹ thuật độc đáo chưa thấy nói đến và nó cũng chính là điều làm cho dòng sản phẩm gốm Quảng Đức khác biệt với các dòng gốm khác.

Hiện nay, ở Quảng Đức chỉ còn một vài gia đình tiếp tục duy trì nghề làm gốm. Nghề xưa đã mai một nhiều, nhưng vẫn còn đó những dấu tích của làng gốm cổ một thời vang bóng.

Du lịch, GO! - Theo Nguyễn Danh Hạnh (báo Phú Yên), internet
Tại Vũng La, người dân còn lưu truyền một truyền thuyết khác về bàn cờ ở Gành Tướng. Ngày mồng Hai Tết năm ấy, có một ngư dân nghèo vác chài đi ra phía Vũng La để chài cá về cho gia đình có miếng ăn trong ba ngày Tết. Ông vác chài đi lúc chiều xẩm tối, tới đầu Gành Tướng, trong bóng tối nhá nhem của hoàng hôn, ông chợt thấy có hai ông lão râu tóc bạc phơ, tướng mạo phương phi đang ngồi đánh cờ trên bàn đá đầu mỏm, sau lưng có hai tiểu đồng đứng hầu.

Thấy lạ, ông nấp vào bụi rậm quan sát, bởi vùng đất này, theo hiểu biết của ông ta, không có hai ông già như vậy ngụ cư, mà nếu là nơi khác đến, ắt phải đi ngang qua xóm chứ không có con đường nào khác để tới được mỏm núi heo hút này.

Đang suy nghĩ miên man, bỗng nhiên một trong hai ông già kia, đặt con cờ xuống bàn, vuốt râu cười ha hả, nói giọng sang sảng: “Ta là thiên tướng nhà Trời, đi ngang qua đây thấy phong cảnh hữu tình nên mới dừng chân, hạ xuống đây vừa đánh cờ vừa ngắm cảnh non nước thơ mộng. Chúng ta chỉ trốn nhà Trời trong giây lát. Ngươi đã trông thấy sao thì hay vậy, không được kể lại với bất kỳ người thứ hai nào biết chuyện này. Chúng ta sẽ cho nhà ngươi sống đến trăm tuổi, con cháu đầy đàn, được hưởng phước, lộc, thọ… bằng không nghe lời ắt phải chết bất đắc kỳ tử” rồi biến mất.

Người đàn ông chài lưới kia hoảng sợ mang chài về, không dám xuống vịnh chài cá như những hôm trước đây. Quả  nhiên sau đó công việc làm ăn của gia đình ông ngày mỗi khấm khá, trở thành một ngư dân giàu có trong làng, mua sắm được nhiều ghe bầu chở cá, mắm, muối đi vào tận Đàng Trong bán, rồi chở gạo, vải vóc về bán lại cho các thương buôn khác trong vùng.

Mãi tới năm chín mươi tuổi, nhân dịp mừng lễ thượng thọ và cũng là dịp cúng lăng trong làng, ông đã vô tình kể lại cho con cháu và người trong làng nghe câu chuyện xưa, xảy ra cách đây mấy mươi năm mà ông giấu kín trong lòng, tưởng chừng đã không còn nhớ nổi.

Nhưng đêm ấy, trong giấc ngủ chập chờn, hai thiên tướng xuất hiện trước mặt. Một trong hai người chỉ vào ông mà nói rằng: “nhà ngươi đã phạm lời nguyền. Số ngươi coi như đã chấm dứt”. Nói rồi hai ông lão biến mất. Tỉnh giấc, ông cho gọi tất cả con cháu lại kể câu chuyện vừa xảy ra trong giấc mơ rồi nhắm mắt ra đi. Sau đó, con cháu làm ăn ngày mỗi sa sút, rồi trở lại những ngư dân nghèo khó như xưa.

Ngày nay, trên mỏm đá Gành Tướng vẫn còn in dấu bàn cờ, mặc dù thời gian, mưa nắng, sóng biển đánh vào đã làm cho phiến đá mòn đi khá nhiều.
Chính bởi cảnh sắc thơ mộng và kỳ vĩ trên một dãy vũng kéo dài liên tục ở mạn Đông thị trấn Sông Cầu, nên dân gian vẫn còn lưu truyền câu ca dao ca ngợi vùng đất này:

Vũng Dông, Vũng Mắm, Vũng Chào
Vũng La, Vũng Sứ, Vũng nào cũng thương.

Du lịch, GO! - Theo ĐÀO MINH HIỆP – ĐOÀN VIỆT HÙNG (báo Phú Yên), internet
Bàu Sen nằm ở gần khoảng giữa Đông Hà và Đồng Hới, thủ phủ hai tỉnh Quảng Trị và Quảng Bình trên đường 1A. Đi qua khỏi thị xã Đông Hà chừng ba bốn chục cây số ta sẽ nhìn thấy một vùng hồ nước thật lớn nằm bên phải đường quốc lộ.

Đây là một hồ nước ngọt nằm sát biển thuộc xã Sen Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ. Truyền thuyết nói rằng Bàu Sen không đáy, mà thông với một hồ nước ngọt khác cũng sát biển theo kiểu "bình thông nhau" có tên là Bàu Tró ở thành phố Đồng Hới, cách đây chừng 40km về phía bắc.
Truyền thuyết còn đưa ra một dẫn chứng cho rằng người ta đánh dấu quả bưởi đem thả xuống Bàu Tró, ít ngày sau thấy nó nổi lên ở Bàu Sen!

Người xưa thấy bàu sát biển, lại không có các nguồn nước đổ vào, vậy mà giữa những muôn trùng nắng gió chang chang, bàu vẫn đầy ắp nước, xanh rì, ngọt lịm, nên tự an ủi bằng lời giải thích huyền hoặc phi tự nhiên vậy thôi, chứ kỳ thực, cũng như Bàu Tró, Bàu Sen có đáy, và nguồn nước ngọt cấp cho Bàu Sen luôn đầy là từ các đồi cát bao bọc trùng điệp quanh bàu.

Mỗi đồi cát này sẽ là một chiếc "khăn tắm" khổng lồ được dồn đống lại, ngấm no nước vào mùa mưa để lặng lẽ cấp nước cho Bàu suốt mùa hè miền Trung khốc liệt, rồi chờ đợi một mùa mưa tích nước khác, luân hồi. Một sự mát mẻ, khoan thai, từ tốn trong lòng, trái ngược với vẻ ngoài khô khốc "chang chang cồn cát..." mà ngay đến Tố Hữu, người con miền Trung xứ Huế cũng khó nhận ra. Tuy nhiên, ngày nay, những đồi cát báu vật, riêng có ở đây đang ngày đêm bị khai thác cạn vơi dần, dẫn đến nguy cơ làm cạn kiệt nguồn nước Bàu Tró, Bàu Sen...

Tên là Bàu Sen nhưng từ khi biết nó đến nay, tôi chưa từng thấy sen mọc ở đây bao giờ (do không đi đúng mùa sen nở), duy chỉ có cá là nhiều. Hơn 5 năm trước, tôi cùng cơ quan phối hợp với Trường đại học Thủy sản Nha Trang thả xuống đây hàng vạn cá giống nước ngọt các loại để làm giàu đa dạng sinh học của bàu.

Bàu Sen gồm hai nửa vắt qua đường thiên lý bắc-nam (quốc lộ 1). Nửa phía tây (nhỏ hơn) thường nhận và phản ánh rõ ràng nhất, ấn tượng nhất những tia nắng quái chiều hôm với những chập chờn khoảnh khắc.
Ngược lại, nửa phía đông Bàu Sen (lớn hơn), lại có năng lực cảm nhận, lưu giữ và "miêu tả" tinh tế màn sương mai mờ ảo mỗi sáng trong lành, và cũng chỉ trong chốc lát.

Xa xa tuốt bên kia bàu là những cồn cát bỏng nắng trưa Quảng Bình cùng những rừng phi lao kéo dài ra tới biển. Đó là những khu rừng phi lao vừa tạo môi trường sinh thái vừa phòng hộ ven biển, bao nhiêu con người chung sức gây trồng đã mấy chục năm để chống hoang hóa và xâm thực của cát biển.

Nhưng Bàu Sen không chỉ có sương mai và nắng quái chiều hôm, những "thực đơn tinh thần" thuần khiết. Ở đây còn có món cháo cá Bàu Sen, một món ngon ẩm thực đã thành thương hiệu, làm nức lòng biết bao du khách trên đường thiên lý Bắc - Nam, mỗi khi qua đây...

Dừng xe lại, nơi có mấy cái chòi lá lụp xụp ấy, và có lác đác những chiếc xe tải, xe con giát cơm trưa chiều. Lần ấy ghé chơi, nhà cửa tuyềnh toàng, không sắt thép, không kèo cột bê tông. Khách hỏi thăm chủ cười hiền, mần quán lâu lâu rồi. Bao năm nay vẫn gà Ri thịt chắc thơm tho ngọt lành, vẫn rượu gạo quê nhà tự nấu, vẫn tôm cá trong bàu chép trắm mè trôi, bao nhiêu năm vẫn xài tốt.

Người ta kể chuyện ở đất này luôn có hương thơm và vị ngọt của Sen trong hơi gió mỗi mùa Sen nở. Bởi trước kia nơi đây có Bàu Sen, có Đầm Sen là những hồ nước ngọt mênh mông. Người ta kể chuyện mảnh đất đây nhiều bão tố, lâu lâu thiên nhiên lại một lần lụt lội, bão cát như muốn thử xóa trắng quê hương miền.

Lan man chuyện trời biển, ta lại về với chuyện quán bụi trên hồ nước Bàu Sen. Khác với muôn vàn quán xá ven đường trên dọc dài thiên lý Bắc- Nam: sau vài năm được khách, có tiền là tức tốc xây lầu, tô trát, xập xình nhạc và… gái môi đỏ tóc vàng. Còn ở đây: hơn chục quán lá Bàu Sen tự muôn đời vẫn chân chất, dân dã và thô mộc như… sen. Hơn chục quán lá nhoi ra mặt hồ lộng gió. Những quán lá dân dã, thô mộc được dựng trên những chiếc cọc tre và bê tông khẳng khiu. Cầu gỗ, mặt sàn gỗ và vách cũng bằng gỗ. Những chiếc võng gai, chiếu cói và những chiếc bàn gỗ thấp lè tè.

Đặc sản là cá, gà và tẩm quất. Sau một chặng đường gió bụi mệt nhọc, bẻ ngoặt vô lăng dừng lại ven hồ. Chỉ tay chọn một chú gà quê đang cục tác trong lồng, vói xem chủ quán vớt chọn cá từ những cái lồng thả dưới hồ nước (cá ở đây chủ yếu là cá nước ngọt như chép, trắm, lóc, diếc ...). Rồi cởi phăng chiếc áo lấm bụi, ngã nhoài ra chiếc chiếu cói giữa sàn cho bọn trẻ tẩm quất.

Những đứa trẻ hơn chục tuổi, đa phần là học sinh, cổ còn đeo khăn quàng đỏ, tan học về là sà vào quán chờ khách. Úp mình xuống chiếu, tựa cằm lên cái gối nhỏ mà sướng rơn người trong những tiếng đấm tay bồm bộp.“Các bác yên tâm, bọn cháu trẻ nhưng tay nghề không non đâu, tẩm quất Bàu Sen nổi tiếng nhất… Đông Nam Á đấy!”.

Cởi trần úp người bồm bộp trên sàn quán là hơn chục bác tài và các thực khách, trong khi chờ bếp đang thổi lửa luộc gà và nấu món cháo cá. Riêng ai không thích tẩm quất thì cứ việc ngửa lưng trên những chiếc võng gai đung đưa trong gió. Mỗi quán luôn treo sẵn hàng chục cái võng gai như vậy.

Tẩm quất hết úp lại lật nghiêng người, bắt chéo tay chân bẻ kêu cục cục. Rồi ngửa người cho “kiến bò bụng” và bóp tay. Hơn nửa tiếng, khi ngồi dậy để cậu bé bóp vai, bẻ cổ thì cũng là lúc nhà bếp vừa bưng lên đĩa thị gà to thơm phức và nồi cháo cá nóng hổi.

Gà nguyên con, xé tay chứ không dùng dao chặt. Cầm tay chấm muối tiêu mà ăn, ăn kiểu nhà quê, chân chất, hoang dã mà khoái khẩu. Chế một cốc rượu gạo, thứ rượu gạo nguyên chất chỉ có ở Bàu Sen. Xé miếng thịt gà, chêm thêm trái ớt, chùm tiêu xanh, thêm một cốc nữa, cốc nữa mà thấy tê đầu lưỡi, hừng hực trong người.

Món sau cùng là cháo. Đừng lấy thìa, cứ bưng nguyên bát cháo mà húp, húp đến toát mồ hôi, vừa húp vừa suýt xoa đầu lưỡi. Cá trong nồi cháo vớt ra đĩa. Từng mảng trứng cá vàng óng. Gắp miếng cá nóng thơm mà nghe như gió biển thổi rân rân bên má, cảm giác đê mê như được hương gió trời chiều chuộng!

Ai đã từng một lần cầm vô lăng xuôi ngược Bắc Nam xin mách một điểm dừng kỳ thú có một không hai này- điểm dừng mà bất cứ ai ngược xuôi trên chặng thiên lý không dừng một lần, có lẽ sẽ ân hận suốt đời đấy!

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ Báo Quảng Bình, Ẩm Thực 365, Quangbinh24...

Friday, 12 April 2013

Sáng 10/4, một nhóm gồm 12 người nước ngoài đang sống và làm việc tại Việt Nam đã thực hiện chuyến đi dài 22 ngày trong một hành trình nhân đạo mang tên “Hành trình Honda 67”.

Theo đó, thành phần tham dự hành trình gồm: các nhà sáng lập Công ty Besra, các đối tác và bạn bè. Điểm xuất phát của hành trình là Hà Nội vào ngày 10/4/2013 và kết thúc tại TP.Hồ Chí Minh vào ngày 1/5/2013 với chiều dài hành trình khoảng 2.000 km.
Những chiếc xe Honda 67 cũ được các thành viên mua lại từ nhiều người Việt Nam, sau đó sửa chữa, thay mới nhiều phụ tùng linh kiện cũng như làm mới vẻ bề ngoài của nó để thực hiện chuyến đi xuyên Việt.

< Các thành viên sáng lập, tham gia "Hành trình 67" nhằm gây quỹ từ thiện giúp đỡ người dân Quảng Nam.

Theo các thành viên trong đoàn, Honda 67 là chiếc xe hết sức thân quen và tin cậy với người Việt Nam.

< Kiểm tra xe.

Vì vậy, được xuyên Việt với những chiếc xe này sẽ khiến họ thấy mình gắn bó và mang phong cách Việt Nam hơn, nơi họ đang sống và làm việc.

Hành trình sẽ đi qua các địa phương gồm: Hà Nội, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, T.T.Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, KonTum, Đắc Lắc, Nha Trang, Đà Lạt, Phan Thiết và TP Hồ Chí Minh. Phần lớn hành trình sẽ đi dọc đường mòn Hồ Chí Minh với mục đích chinh phục con đường vĩ đại bằng một phương tiện nhỏ bé.

Vượt hơn 2.000 km với nhiều cung đường hiểm trở, qua những núi non, những thành phố đông đúc, làng mạc xa xôi trong thời tiết khắc nghiệt, hành trình sẽ mang lại những trải nghiệm, cảm xúc cùng các thử thách mới cho các thành viên trong đoàn. Những câu chuyện thú vị trong chuyến đi sẽ được kể lại thông qua các mạng xã hội.

Thông qua chuyến đi, những thành viên mong muốn không chỉ hoạt động kinh doanh tại Việt Nam mà hơn thế nữa muốn để lại một cái gì đó thật ý nghĩa với dải đất hình chữ S này.

Chuyến đi với tên gọi “Hành Trình Honda 67” nhằm gây quỹ cho dự án cải thiện dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh tại huyện Phú Ninh và huyện Phước Sơn. Đây là hai huyện thuộc tỉnh Quảng Nam chịu ảnh hưởng của thời tiết khắc nghiệt, điều kiện kinh tế còn hạn chế, và nhất là việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em còn rất khó khăn.

Mặc dù nhận được nhiều sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương và các tổ chức phi chính phủ nhưng việc thiếu thốn y bác sỹ có tay nghề cao, khan hiếm thuốc men và các thiết bị y tế cần thiết là tình trạng chung tại đây. Đó chính là lý do công ty Besra và tổ chức Đông Tây Hội Ngộ đã quyết định cùng nhau hợp tác và phát triển dự án.

Công ty Besra, trước đây được biết đến với tên gọi Olympus Pacific Minerals, là nhà đầu tư lớn nhất và đóng thuế cao nhất trong ngành khai thác vàng ở Việt Nam.

Besra đã đầu tư vào Việt Nam từ năm 1993 qua hai công ty liên doanh và hiện hai công ty này hiện đang hoạt động ở hai nhà máy tuyển luyện vàng ở xã Tam Lãnh (huyện Phú Ninh) và xã Phước Đức (huyện Phước Sơn) của tỉnh Quảng Nam.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ Vietnamnet, VTC, CAND... và nhiều nguồn ảnh khác
Được hỗ trợ lúa, ngô giống, được cấp tiền làm nhà, nhưng bà con dân tộc Mảng (Nậm Nhùn, Lai Châu) đều đem đi đổi rượu. Họ uống rượu ngày này qua ngày khác, đàn ông, đàn bà đều say sưa.

< Túp lều của cặp vợ chồng nghiện rượu Sìn A Cớm và Lò Me Đao.

Xã Trung Chải mới được tách ra từ xã Nậm Ban chừng một tháng nay. Người ta ví von rằng, nếu Lai Châu là tỉnh nghèo nhất nước, Sìn Hồ là huyện nghèo nhất tỉnh thì chẳng có nơi nào nghèo khổ hơn Trung Chải. Từ ngày 1/4, Trung Chải thuộc huyện mới Nậm Nhùn. Chính quyền các cấp hy vọng, với chính sách đầu tư mới, Trung Chải sẽ bớt đi đói nghèo.

Trung Chải có 345 hộ, trong đó có 127 hộ người Mảng, 112 hộ người Mông. Mùa giáp hạt mỗi năm người dân đói 3-5 tháng. Bí thư Đảng ủy xã Trung Chải, bà Lý Thị Chướng, là người Mảng thành đạt nhất trong cộng đồng dân tộc mình dù như tự thừa nhận "chẳng học hành gì". Bà thật thà: “Gạo, tiền, tấm lợp, con giống, vật nuôi đều được hỗ trợ, nhưng dân cứ đói nghèo vì rượu chè, vì lười lao động”.

Trung Chải là xã cực kỳ khó khăn, thuộc huyện mới Nậm Nhùn, chưa có trụ sở làm việc, chưa có trạm y tế, đất sản xuất, nước sinh hoạt hiếm hoi. Với dân tộc Mảng, họ từng đứng bên bờ vực tuyệt chủng vì sinh ít hơn tử. Bây giờ, dù đã cố gắng rất nhiều, được sự hỗ trợ rất nhiều, nhưng cũng chỉ kéo được tỷ lệ sinh tử ngang bằng, không phát triển. Hôn nhân cận huyết, rượu chè, bệnh tật vẫn bủa vây họ trong vòng luẩn quẩn đói nghèo, lạc hậu.

Đại úy Trần Giang Nam, Bộ đội biên phòng đồn Pa Tần được tăng cường về làm Phó bí thư Đảng ủy xã Trung Chải, dẫn khách vào bản Nậm Nó. Bản có 31 hộ người Mảng, đa số đói nghèo, nhưng nếu nói về uống rượu, thật khó để tìm được vùng đất uống nhiều, uống lâu như Nậm Nó.

Tại nhà bà Lý Thị Bình, hai người đàn bà, bốn người đàn ông đang uống rượu. Bắt đầu từ tầm trưa, đến tận chiều tối cuộc rượu vẫn còn rất rôm rả. Trên bàn có ba quả trứng gà, một đĩa muối trắng. Người Mảng uống rượu không tốn mồi, không cần lý do, cứ có rượu là rủ nhau uống. Ví như cuộc rượu ở nhà bà Bình, mỗi thành viên trong mâm đều có hoàn cảnh đau lòng, vậy nhưng họ vẫn uống, vẫn cười đùa.

Bà Bình thì chồng đi tù, nhà còn ba mẹ con, mỗi năm thiếu ăn từ lúc thu hoạch được vài ngày cho đến lúc nhận được
gạo cứu đói. Hoàn cảnh người em trai bà, Lý A Vinh, thì còn thê thảm hơn. Vợ và ba đứa con lần lượt chết vì bệnh tật, không nhà cửa, không ruộng nương, thân làm người đàn ông sức dài vai rộng, vậy mà Vinh phải tá túc ở nhà chị gái. Chẳng thấy cùng cực, Lý A Vinh vẫn uống rượu, kể về gia cảnh rất vui vẻ.

< Người dân uống rượu cả ngày.

Bà Tạo Me Ván, chồng chết sớm, hai con trai, một đứa thì bị nước lũ cuốn trôi, một đứa bị sập hầm chết trong lúc làm vàng ở ngoài sông Nậm Na. Bà Ván không nhớ tuổi mình, chỉ biết là già rồi, không thể đi nương được nữa. Nhưng bà uống rượu rất khỏe, ngày ngày cứ thấy nhà nào trong bản uống rượu là bà lân la đến ngồi cùng. Uống say thì về túp lều cỏ giữa bản nằm ngủ, tỉnh lại đi tìm rượu uống tiếp. Cũng may ở Nậm Nó dân bản uống nhiều và hào phóng nên bi đát như bà Ván chẳng lúc nào thiếu bữa.

Trông mâm rượu, vui nhất có lẽ là hai người đàn ông làm nghề đi mua ngô giống, thóc giống của dân bản. Biết người Mảng ở Nậm Nó được trợ cấp nhiều ngô, nhiều thóc để sản xuất, người ở địa phương khác đến gạ gẫm họ bán rẻ. Khi thì tiền mặt, khi thì đổi rượu, cứ mỗi đợt phát thóc giống, ngô giống thì dân bản Nậm Nó lại say sưa suốt ngày.

Chứng kiến cảnh ấy, đại úy Nam phải yêu cầu mấy tay mua giống của bà con về nhà trưởng bản Lý A Tảo làm việc. Sau khi bàn bạc, cả anh Nam lẫn trưởng bản Tảo yêu cầu gọi những người bán giống đến trả tiền cho cánh lái buôn và nhận lại giống để sản xuất. Nhưng chẳng gọi được ai, vì bán giống vừa xong thì chủ nhà đã đi mua rượu về liên hoan, uống cho say bí tỉ, không người nào dậy nổi.

Cán bộ đành ngồi chờ, mãi đến tối thì Lò A Đòi, một trong 3 gia đình trong bản bán ngô, thóc giống, mới tỉnh rượu. Rất thản nhiên, Đòi bảo do thèm rượu quá nên bán, mỗi bao giống 30 nghìn đồng. Tiền bạc bán giống cũng đã mua rượu uống rồi, lấy đâu ra mà trả lại cho lái buôn được nữa. “Khổ lắm. Chính sách nhà nước cố gắng hỗ trợ bà con thoát nghèo, nhưng có hỗ trợ đến mấy cũng bó tay nếu nhận thức người dân không được cải thiện”, đại úy Nam phàn nàn.

Ở bản Nậm Nó có rất nhiều căn nhà của các gia đình không thể nào gọi là nhà, rách nát và xiêu vẹo. Đại úy Nam bảo, chủ nhân của những căn nhà rách nát ấy từng nằm trong danh sách được hỗ trợ để xây nhà theo chương trình hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở 167 của Chính phủ. Họ không có nhà là bởi cứ hỗ trợ được thứ gì thì đem đi đổi rượu hết.

< Cứ có tiền là người dân đi mua rượu.

Nằm giữa bản Nậm Nó là túp lều của đôi vợ chồng Sìn A Cớm và Lò Me Đao. Sở dĩ gọi là lều vì nơi trú ngụ của gia đình Cớm được căng bằng bạt xanh, trong nhà không hề có nổi một vật dụng gì có thể đáng giá lên đến tiền trăm. Ngoài chiếc kiềng bếp và chỗ gia đình nằm ngủ ra, nhà cửa cứ trống huơ trống hoác như chòi canh rẫy.

Vợ chồng Cớm đều khỏe mạnh, mới có một đứa con nhỏ nhưng họ lại được xếp vào hạng nghèo nhất xã. Cả đại úy Nam lẫn Bí thư Đảng ủy xã Lý Thị Chướng đều kết luận: Tất cả từ rượu mà ra.

Cả Cớm lẫn Đao đều nói tiếng Kinh bập bẹ, không biết tuổi, không nhớ được nhà mình làm bao nhiêu nương rẫy. Chỉ có chuyện uống rượu thì hai vợ chồng đều thuộc hàng cao thủ. Họ có thể uống rượu suốt ngày, thậm chí là ngày này sang ngày khác. Cứ có tiền là vợ chồng mua rượu về uống, uống say thì ôm nhau ngủ, không lên nương, không đi làm thuê làm mướn gì.

Năm ngoái, khi được hỗ trợ tấm tôn để làm nhà 167, vợ chồng Cớm vội vàng phân công nhau vác tấm tôn đi đổi rượu. Không mời ai cả, họ tự đổi, tự mua rượu về, chỉ có hai vợ chồng uống với nhau. Thực ra gia đình Cớm từng có nhà, dù căn nhà ấy không khá hơn túp lều hiện tại là bao.

Chỉ cách đây mấy hôm, có một dự án về xây lớp học, không có đất xây trường nên họ đặt vấn đề “giải tỏa” nhà Cớm. “Giá đền bù” là một triệu đồng. Nếu vợ chồng đồng ý thì dời túp lều đi chỗ khác vào nhận tiền đền bù luôn. Phấn khởi quá, căng xong túp lều mới, với một triệu đồng có được, Cớm và Đao chia nhau mỗi người 5 trăm nghìn đồng đi mua rượu uống. Chỉ mới mấy ngày mà họ uống gần hết chừng ấy tiền mua rượu.

Du lịch, GO! - Theo Nông nghiệp Việt Nam, ảnh internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống