Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Sunday, 4 September 2011

Du khách có dịp về Đăk Mil, xin mời nghé thăm Hồ Tây ở ngay trung tâm thị trấn. Hồ Tây Đăk Mil có diện tích khoảng 40ha, từ trung tâm huyện, một vùng lòng hồ rộng chảy dài theo hướng Tây, khoảng 2km. Hồ bắt đầu chia làm hai nhánh chạy dài theo quốc lộ 14 ôm bọc lấy qủa đồi cà phê xanh đẹp như một ốc đảo.

Đây là lòng hồ chứa nước lớn để cung cấp cho việc tưới tiêu của huyện Đắk Mil và cũng là nơi nhận chứa dung lượng nước từ các dốc cao đổ xuống với khối lượng lớn khi mùa mưa về.

Những con đường sinh thái mát mẻ, rộng dài chạy quanh hồ. Một số công trình vui chơi giải trí gần như được hoàn thiện. Cứ mỗi buổi sáng tinh mơ, hay chiều tà dịu nắng từng đoàn người nối nhau chạy thể dục, hay đi bộ dạo chơi, hít thở không khí trong lành chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên ban tặng.

Hồ Tây còn là nơi cung cấp một lượng nước sạch rất lớn cho cả huyện và là nguồn lợi lớn về thuỷ sản. Đêm đêm, những ngọn đèn đánh bắt tôm, cá cùng với những ngọn đèn hoa đăng lấp lánh vây kín vùng hồ trông tuyệt đẹp.

Những ngọn đồi quanh Hồ Tây trong tương lai sẽ là những vườn cây ăn quả, du lịch sinh thái quanh hồ dành cho du khách. Những nhà hàng thuỷ tạ mát mẻ, sang trọng những chiếc cầu vồng nhiều màu sắc vượt qua lòng hồ đến những mỏm đồi, những chiếc ca nô cao tốc, những chiếc thuyền thiên nga xinh đẹp của những chàng trai cô gái lướt trên lòng hồ thoả thích, ngắm nhìn bầu trời bao la, thiên nhiên kỳ thú.

Hồ Tây Đăk Mil còn là nơi du lịch sinh thái tuyệt vời, đem lại một nguồn thu rất lớn về du lịch cho nhà nước, cho địa phương. Muốn đạt được điều đó nên chăng phải có quy hoạch, có tầm nhìn chiến lược bền vững về du lịch, phải có đầu tư lớn trong những lĩnh vực phục vụ cho ngành du lịch. Để đảm bảo sự phát triển hài hòa, song song với công tác quy hoạch, công tác tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch và phát triển thị trường; đa dạng hóa sản phẩm, loai hình, chương trình du lịch và nâng cao chất lượng dịch vụ luôn được huỵện xác định là những nội dung cốt yếu để xây dựng và phát triển du lịch của huyện nhà.

Với làn nước trong xanh, Hồ Tây như chiếc máy điều hoà khổng lồ giúp thanh lọc không khí trong lành cho cả một vùng đô thị. Sau mỗi cơn mưa chiều, Hồ Tây như được thay chiếc áo mới của thiên nhiên tươi đẹp, thơ mộng làm nao lòng du khách và trở thành nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca nhạc họa.

Hồ Tây mang trong mình sự êm đềm và lãng mạn, mặt nước bằng phẳng, trong xanh in bóng bầu trời cao rộng phía trên, chỉ đôi khi có những làn gió mạnh vô tình lướt qua mới làm cho mặt nước lăn tăn gợn sóng, trông rất đẹp và hiền hòa.

Trong không gian bao la của đất trời, con người dường như cảm thấy bình yên và yêu đời hơn trước khung cảnh tươi đẹp, tĩnh lặng của Hồ Tây.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ Baomoi, Tipcdaknong, internet
Tọa lạc tại huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, cách trung tâm TP.HCM khoảng 40km, với tổng diện tích 10ha, làng tre Phú An như một thiên đường xanh tuyệt vời.

Nơi đây, tập trung hàng ngàn bụi tre của 17 giống (trên thế giới có hơn 100 giống) và hơn 300 mẫu tre khác nhau của Việt Nam. Làng tre vừa là nơi để sinh viên học tập nghiên cứu vừa là điểm du lịch sinh thái lý thú của tỉnh Bình Dương.

Để đến làng tre, bạn có thể đi bằng xe máy, theo quốc lộ 13 đến Thủ Dầu Một, sau đó quẹo trái tại ngã tư Sở Sao. Hỏi đường để đến làng tre không khó vì địa điểm du lịch này đã trở nên quen thuộc với người dân địa phương. Thêm vào đó, nằm ngay mặt tiền đường với màu xanh ngắt mênh mông, chẳng khó để bạn không nhận ra làng tre.

< Đồi hoa Archis Pintoi giữa thiên đường tre xanh.

Bước vào làng tre, hẳn bạn sẽ chú ý ngay đến ngôi nhà trung tâm – nhìn xa như một ốc đảo giữa thiên đường xanh. Phía trước ngôi nhà là thảm thực vật họ đậu phủ đất (Arachis Pintoi, có khả năng cải thiện đất) chen lẫn nhưng bụi tre đuôi gà trông rất lạ mắt.

Màu vàng rơm bắt mắt từ hoa của giống thực vật họ đậu pha lẫn màu xanh tre tạo nên một bức tranh màu sắc hài hòa đến kỳ lạ.

< Bao la một rừng tre.
< Lối nhỏ vào mê cung tre.

Ngôi nhà bao gồm khu bảo tàng mẫu vật tre và khu vực quản lý dành cho những người nghiên cứu, bảo vệ, chăm sóc tre làm việc. Ngôi nhà được thiết kế mở với không gian nội thất hòa với thiên nhiên xung quanh, bàn, ghế, đèn, tủ… trong nhà cũng đều làm bằng tre.
< Sừng sững đá lưu niệm ở làng tre.

Bước vào khu bảo tàng, bạn sẽ được người quản lý hướng dẫn tỉ mỉ từ những giống tre khắp nơi trên cả nước cho đến các sản phẩm làm từ tre. Đặc biệt, nơi đây có một bộ sách lớn có kích thước cao và to hơn người là một tài liệu hết sức đầy đủ về các giống tre.
< Rảo bước giữa thiên đường tre.

Bước ra phía sau bảo tàng bạn sẽ có cảm giác được chìm vào một không gian xanh bao la – khu bảo tồn tre. Dạo bước nơi đây, bạn sẽ gặp được rất nhiều những giống tre khác nhau. Có loại thẳng đuột, lá to nhưng cũng có loại xòe ra thành bụi và lá nhỏ. Trên mỗi cây đều chú thích rõ tên gọi cũng như khu vực trồng.
< Cầu tre.
< Một góc ảnh đẹp không thể bỏ qua.

Bạn có thể dễ dàng biết được thế nào là tre vuông, vàng sọc, mai, mạy muồi, luồng, vầu, trúc Cao Bằng, tre mét, hóp… Cả một vùng chỉ toàn tre, nhưng lại không nhàm chán mắt nhìn bởi sự phong phú về chủng loại và cách bài trí đẹp mắt… Và sẽ thật may mắn nếu bạn phát hiện ra hoa tre – một loại hoa mấy mươi năm mới trổ một lần.
Bên cạnh khung cảnh thơ mộng bởi màu xanh bạt ngàn, làng tre còn có cả một mê cung tre quanh co, khúc khuỷu. Nếu không có tài quan sát, bạn rất dễ bị lạc đường bởi vô số cây tre giống nhau bao bọc chung quanh.

Sâu bên trong làng tre là mô hình “Khu đồng bằng sông Cửu Long” với cầu tre lắt lẻo, con đò nhỏ, thửa ruộng xanh, chiếc vó… những hình ảnh thân thuộc và gần gũi, gợi nhớ những vùng quê yên ả…

Du lịch, GO! - Theo NLĐ du lich, Baomoi
“Cũng không ngon lắm đâu, chỉ là con dơi đem muối thôi mà! Nhưng nếu người làng mình mà không làm mắm dơi thì như không còn là con cháu của ông bà mình, không phải là người Nước Chạch nữa, chịu sao được!”.
Chỉ đến khi từ giã ngôi làng heo hút giữa Trường Sơn thẳm sâu tôi mới cảm nhận được giá trị của loại mắm lạ này qua câu nói cũng như cách ứng xử với rừng thiêng của người làng Nước Chạch.

Nước Chạch là một làng vùng xa của xã Ba Xa, huyện Ba Tơ (Quảng Ngãi), được gọi theo tên của một con suối lớn vốn là con nước chính của một vùng rừng núi rộng bao quanh. Ở Ba Xa, nói đến Nước Chạch, người ta nghĩ ngay đến tập tục săn dơi làm mắm, và mắm dơi trở thành một “đặc sản” của làng Nước Chạch trong cộng đồng người Hre ở Quảng Ngãi.

Phải đợi đến nhá nhem tối tôi mới được diện kiến vị chủ hang dơi: ông Phạm Văn Tinh, người cai quản cái sào huyệt dơi mà người Nước Chạch vào đó săn bắt đem về làm mắm. Như nhiều người vùng cao lớp lớn vốn không biết tuổi thật của mình, vị chủ hang 57 tuổi theo giấy chứng minh nhân dân có lẽ đã vượt xa tuổi 60.
Nghe khách hỏi đến món đặc sản của làng, ông vui vẻ nói: “Mắm dơi mới hết cách đây một tháng. Có thèm cũng phải chịu thôi. Đến khoảng tháng Mười âm lịch mình mới chọn ngày vô hang bắt dơi, mới có mắm dơi ăn lại...”.


Làng Nước Chạch nằm cách hang dơi một buổi đường. Ông Tinh cho biết từ sau ngày hòa bình, lũ làng dọn đến Nước Chạch ở cho tiện việc làm ăn vì làng cũ ở gần hang dơi nằm trên vùng núi cao với nhiều sườn đá cheo leo, lại thêm dòng sông Re trắc trở. Xa làng cũ nhưng món “hồi môn” trăm năm trước của làng vẫn thuộc về người Hang Dơi (tên làng cũ của người Nước Chạch bây giờ). “Không sợ người khác trộm đâu, của ai nấy hưởng mà. Người Hre không ai lại đi lấy cái không phải của mình...”, ông Tinh nói về việc hang dơi của người Nước Chạch bao đời nay vẫn không bị người ngoài xâm phạm.
Quyền làm chủ hang dơi được truyền từ đời cha cho đời con. Ông Tinh ở vào khoảng đời thứ mười được thừa tự cái hang dơi này.

“Bản quyền” mắm dơi Nước Chạch là cả một quá trình chế tác của nhiều lớp người nơi ngôi làng nằm sâu giữa vùng núi vắng. Cái hang dơi toàn đá chồng lên đá “chứa đến năm sáu trăm con người cũng không hết” ấy có rất nhiều dơi. Ông Tinh kể: “Khi mình biết mang cái gùi vượt qua sông Re, vượt qua mấy cái mỏm đá cao để vô hang dơi giăng lưới bắt nó thì đã nghe ông cha dặn chỉ được phép bắt con dơi vào mùa mưa thôi. Mùa nắng dơi trong hang ít, nó bay ra ngoài kiếm ăn, cũng là mùa sinh sản của nó nên không được bắt. Một năm chỉ có một ngày săn dơi, dù chúng còn nhiều trong hang cũng không được phép bắt thêm một ngày nữa...”.

Săn dơi đã thành nỗi đợi chờ trong cả một năm của người Nước Chạch. Khi mưa đông tới, đến đứa trẻ lên chín lên mười cũng biết trông vào nhà vị chủ hang chờ lệnh ban ra. Khoảng tháng Mười Âm lịch, khi bông lúa trên rẫy gần ươm là chủ hang sẽ chọn ra một ngày rồi báo cho lũ làng biết. Trước ngày vào hang săn dơi, chủ hang phải làm hai con gà cúng “con ma rừng” cầu may cho cả làng. Ngày săn dơi không khác ngày trẩy hội.

Ông Phạm Văn Dục, Phó trưởng công an xã Ba Xa, cư dân Nước Chạch, cho biết làng có 111 hộ, ngày săn dơi không một hộ nào thiếu người. Hễ ai đủ sức mang gùi vượt dốc vào hang là đi, có nhà có đến ba, bốn người đi. Càng gần đến hang dơi không khí càng sôi động, nhất là lúc vượt lên những lèn đá. Gian nan, nguy hiểm nhưng hấp dẫn, thích thú. Vào hang, kẻ luồn ngách này, người chun ngách nọ. Hang rộng, dơi nhiều, ai cũng có dơi mang về, ai có ít quá sẽ được bà con sớt cho thêm một ít. “Có năm dơi nhiều, săn chậm, số người ra hang trễ phải dựng lều bên sông Re ở lại. Cùng nhau đốt lửa thui dơi, trời dẫu có mưa lạnh nhưng vui hết chỗ nói...”, ông Dục kể.

Dơi mang về, ngoài phần làm mắm, dân làng còn bỏ giàn bếp sấy khô để ăn dần. Làm mắm dơi cũng là sự sáng tạo của cư dân vì lượng dơi bắt được nhiều không thể sấy hết cùng một lúc. Để dơi khỏi ươn thối, người dân đã nghĩ cách muối dơi làm mắm! Lão làng Phạm Văn Ngoa kể: “Thời chiến tranh ác liệt, dân làng muối mắm dơi bằng bắp. Vì không có muối, họ giã bắp vào thịt dơi, cho ra một loại mắm chua giúp họ có cái ăn đối phó với sự khan thiếu hạt muối vàng ngọc lúc bấy giờ. “Dơi muối bột bắp để dành ăn cũng được hai, ba tháng. Chừ dư hạt muối lại thiếu hạt bắp”, ông Ngoa nhắc lại.

Dơi sấy khô chỉ là một cách ăn đơn giản, nhưng khi đem dơi muối làm mắm, người Hre Nước Chạch làm nên một loại mắm đặc trưng, một “văn hóa mắm” của một cõi vùng cao dưới mái Trường Sơn. Người Nước Chạch cho rằng mắm dơi ăn cách nào cũng ngon. Mắm dơi chiên dầu được cho là ngon nhất, nhưng mắm dơi xé nhỏ nấu canh với rau rừng lại có cái ngon riêng. Đơn giản hơn là mắm dơi chưng (hấp) hoặc nướng. Xương mắm dơi giòn, thịt mắm dơi béo, thơm, mềm, nếu là dơi muối bắp lại thêm vị chua. Tất cả những cái ngon ấy khiến người Nước Chạch nguyện giữ đời tục bắt dơi làm mắm mỗi năm.

Ông Tinh sắp bàn giao cái chức chủ hang lại cho đứa con trai 30 tuổi thừa kế, nói rằng gia đình ông nối đời làm chủ hang dơi không một chút tư lợi, trái lại, phải bỏ công sức, của lễ cúng hàng năm. Ông thổ lộ: “Làng có chung cái hang dơi, có con dơi làm mắm ăn phải cố mà giữ. Tuy dơi trong hang năm nào cũng có nhưng mình cũng lo có ngày nó giảm. Dân làng mình so với hồi trước có tăng lên nhiều. Mình phải có cách sao để mỗi năm không bắt dơi nhiều quá, tính sao để giữ cái mùa săn dơi còn mãi với người Nước Chạch”.

Mới hay, giữ một cái hang núi, giữ một tập tục, một nguồn lợi nhỏ cho một làng nhỏ nơi hẻm núi sâu, người đứng đầu đã không hề hưởng công lao mà vẫn luôn canh cánh bên lòng những mối ưu tư...

Du lịch, GO! - Theo TBKTSG

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống