Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Saturday, 1 October 2011

Trường Sa Đông là một đảo nổi thuộc quần đảo Trường Sa, nằm giữa hai đảo Đá Tây và Đá Đông nên còn gọi là Đá Giữa. Cách đảo Trường Sa Lớn chừng 60 hải lý về phía đông bắc. Tọa độ 8 độ 55’ vĩ độ bắc và 112 độ 21’ kinh độ đông.

Mưa luôn là niềm vui bất tận của những người lính trên quần đảo Trường Sa, bởi thế trận đấu bóng chuyền giao hữu giữa đội tuyển chiến sĩ hải quân trên đảo Trường Sa Đông và đội tuyển đại biểu thanh niên trên chuyến tàu “Hành trình tuổi trẻ vì biển đảo quê hương” đang vào những phút gay cấn để phân định thắng bại thì cơn mưa biển ào ào trút xuống.

< Chiến sĩ Hải quân kéo xuồng của đoàn công tác lên thăm đảo Trường Sa Đông.

Các cầu thủ “đội đất liền” có vẻ bị ngợp bởi cơn mưa lớn, nhưng đội tuyển của các chàng lính đảo dường như phấn khích hơn trong màn mưa mịt mù trắng xóa. Ít ra cũng được tắm một trận nước ngọt thỏa thích.

Cái điều rất giản dị mỗi ngày ở đất liền thì ở đảo luôn là niềm mơ ước. Như một bữa rau luộc chẳng hạn. Đảo chìm đảo nổi nào ở Trường Sa cũng trồng rau, rau rất xanh, rất tốt nhưng chỉ dám nấu canh, nếu “chơi” một bữa rau luộc thì “hao rau lắm, xa xỉ lắm”…

Đảo Trường Sa Đông - đấy cũng là đêm duy nhất các thành viên của đoàn hành trình tuổi trẻ ra với Trường Sa được ngủ lại trên đảo, còn tất cả các đêm khác đều ngủ trên con tàu HQ 957. Đảo nhỏ bỗng nhiên đón một đoàn khách gần cả trăm người, anh em chiến sĩ nhường hết giường chiếu cho khách, tất cả ra ngủ ở công sự. Khách cũng không ngủ yên bởi cảm động và áy náy.

Tinh mơ đã thấy nhiều người thức giấc ra ngồi đón bình minh trên bờ kè quanh đảo. Mỗi phút, mỗi giây trên hành trình ra với Trường Sa này thật quý, ai cũng căng hết “ăngten” của mình để cảm nhận.

Những nấm mộ ở Trường Sa Đông…

Chiều hôm trước, khi đoàn công tác vừa cập thuyền, ngay bến vào là nấm mộ của ba liệt sĩ hải quân đã hi sinh tại đảo, nằm gối đầu lên những ngọn sóng biển Đông. Tôi đã giật mình bởi một liên tưởng rất lạ khi thấy ba nấm mộ nằm kề nhau ngay hàng thẳng lối như đội hình một tổ chiến đấu “tam tam” ngay sát vị trí cầu cảng. Có cảm giác như ngay cả khi hi sinh, những liệt sĩ Trường Sa vẫn tiếp tục sát cánh cùng với đồng đội mình làm nhiệm vụ canh gác, gìn giữ bảo vệ chủ quyền lãnh hải, bảo vệ đảo xa.

Lễ tưởng niệm các liệt sĩ diễn ra trang nghiêm và cảm động. Rất nhiều người không kìm được nước mắt. Biết bao nhiêu chiến sĩ đã ngã xuống trên quần đảo bão tố này suốt mấy chục năm qua để vun bồi cho cột mốc chủ quyền Tổ quốc.

Trong buổi bình minh ở Trường Sa Đông, chúng tôi ra ngồi bên những nấm mộ liệt sĩ trước khi xuống thuyền rời đảo, đọc kỹ những dòng chữ trên tấm bia bằng đá hoa cương đen và chợt giật mình. Mỗi sự hi sinh là một câu chuyện cảm động và bất ngờ ẩn giấu sau từng nét chữ trên tấm bia.

Tôi cúi xuống tấm bia đầu tiên: “Liệt sĩ Nguyễn Văn Thi, sinh ngày 15-4-1975, hi sinh 14-4-2001, quê quán Hoằng Minh, Hoằng Hóa, Thanh Hóa”. Một dòng chữ như bao dòng chữ vẫn thường khắc trên bia, nhưng tôi ngờ ngợ có điều gì đó lạ lắm. Và chợt òa vỡ trong tôi những nghẹn ngào. Thì ra liệt sĩ Thi đã ngã xuống đúng vào đêm trước sinh nhật của anh! Thi sinh ngày 15-4 và hi sinh ngày 14-4. Có lẽ nếu hôm đó anh không ngã xuống thì đêm sinh nhật tuổi 26 của Thi sẽ ngập tràn yêu thương cùng đồng đội anh trên đảo.

Những ngày ở Trường Sa chúng tôi đã gặp nhiều người lính với một câu hỏi thật giản dị: “Cảm xúc của anh nếu một ngày kia rời đảo về lại đất liền?”. Tất cả đều rất chân thành nói rằng đó chính là nỗi nhớ tình đồng đội. Nếu ở đất liền thương nhau một thì ra đảo thương nhau gấp mười!

Đại úy Vũ Văn Phúc trên đảo Trường Sa Đông cũng kể rằng khi anh còn đóng quân ở đảo Sinh Tồn, có lần một chiến sĩ viêm ruột thừa phải mổ.Tất cả anh em đều đứng quanh phòng theo dõi ca mổ, không ai yên lòng ngồi ăn, đợi khi ca mổ kết thúc an toàn mới nhớ đến chuyện đi ăn cơm. Hay như thiếu úy  Trần Văn Bốn mà mấy hôm sau chúng tôi gặp ở đảo Tiên Nữ, năm nay Bốn 31 tuổi, ra Trường Sa từ năm 1999, có 10 tuổi quân ở Trường Sa, nếm trải bao nhiêu sóng gió vậy mà khi nói về Trường Sa, Bốn bảo anh nhớ nhất là trận ốm đầu tiên khi ra đảo Đá Nam, người giặt giúp áo quần, người lo nấu cháo, người chăm thuốc men…Tình cảm ấy khiến anh bền lòng với 10 năm bám trụ hết Đá Nam sang Đá Lớn, từ Thuyền Chài về Tiên Nữ…

Hiểu những tình cảm của lính đảo như thế để rồi nhận ra rằng sự ngã xuống của liệt sĩ Thi vào đêm trước sinh nhật của mình sẽ đau xót biết bao trong lòng đồng đội. Thi là nhân viên báo vụ của đảo, anh hi sinh khi lao ra cứu xuồng và dòng biển xoáy đã cuốn anh đi. Sau này về đất liền tôi nghe một nhà báo đàn anh ra Trường Sa Đông trong chuyến trước kể rằng khi anh lên đảo, có hai anh lính cùng quê Thanh Hóa với liệt sĩ Thi đã nhờ anh chụp chi tiết nấm mộ người đồng hương và dặn anh về đất liền nhớ gửi ảnh cho gia đình của Thi. Bởi không chỉ riêng Thi mà cả những đồng đội nằm cạnh anh, chưa ai có thân nhân từ đất liền ra đến đây để thăm viếng, chỉ những người lính trên đảo quanh năm chăm lo hương khói cho đồng đội mình.

Nằm kề Thi là liệt sĩ Vương Viết Mão, quê ở Diễn Lâm, Diễn Châu, Nghệ An. Cũng sinh năm 1975 như Thi, nhưng ngày liệt sĩ Mão hi sinh cũng là một ngày đặc biệt: 17-1-2004, nhằm 26 Tết Quý Mùi! Nghĩa là khi đất liền đang rộn ràng niềm vui đón xuân, những gia đình náo nức dịp sum vầy đoàn tụ, thì ở đảo xa này một người lính trẻ đã ngã xuống ngay trước thềm xuân. Và với ân tình đồng đội thiêng liêng rất riêng của người lính đảo, cái tết năm ấy ở Trường Sa Đông thật ngậm ngùi. Cả hai liệt sĩ Thi và Mão đều sinh năm 1975, dù vậy hai anh là những “liệt sĩ lớn tuổi” ở Trường Sa Đông bởi nấm mộ ngoài cùng trên đảo là của một chiến sĩ quê TP.HCM: Quách Hoàng Lâm, sinh tháng 9-1984, ở phường 16, quận 11, hi sinh tháng 8-2006 khi chưa tròn 22 tuổi…

Cột mốc chủ quyền đặc biệt

Suốt hải trình hơn 1.200 hải lý trên biển Đông, chúng tôi đã đi qua nhiều vùng biển, biết thêm nhiều câu chuyện về lòng quả cảm của người lính, có những người đã lấy thân mình làm nên những “cột mốc chủ quyền sống” trên những đảo chìm  giữa mênh mông trùng khơi, để hôm nay có những cột mốc chủ quyền dựng lên cho bất cứ ai từ đất liền ra quần đảo Trường Sa đều muốn đứng cạnh một cột mốc như thế, chụp một tấm hình với tất cả tình cảm thiêng liêng và tự hào: Tổ quốc ta xa tận chốn này và ta đã từng đến đó!


< Cột mốc chủ quyền trên đảo Trường Sa Đông và chiếc mỏ neo trên thân cột cho biết rất nhiều đất đã được vun bồi cho đảo cao hơn.

Khác với những cột mốc đã được xây dựng bề thế mà chúng tôi từng gặp như ở đảo Trường Sa Lớn, trên đảo Trường Sa Đông, cột mốc chủ quyền của đảo được xây giản dị, sơn màu xanh nước biển với những dòng chữ đề tên quốc gia, tên đảo và các chỉ số tọa độ: 8 độ 55’ bắc và 112 độ 21’ đông. Nhìn xuống chân cột mốc chợt bất ngờ nhận ra cái mỏ neo biểu trưng của hải quân đắp nổi dưới chân cột chỉ còn nhô lên một phần nhỏ, còn thân và mỏ neo đã chìm sâu dưới đất. Nghĩa là đã có hàng ngàn  khối đất được mang ra đắp lên cho đảo cao dần lên, đất dày lên cho cây cối thêm xanh, thêm bóng mát cho chim về làm tổ. Để có ngần ấy đất như vậy hẳn là đã bền bỉ lắm, trường kỳ lắm.

Đọc lại khởi thủy của những hòn đảo trên quần đảo Trường Sa, ấn tượng đầu tiên với lính những năm đầu ra đây là đá san hô bỏng rát dưới nắng, không một bóng cây xanh và cơ man chim biển vỗ cánh ào ào, trứng chim nằm ngổn ngang trên đảo. Và từng ngày từng ngày, bền bỉ như những chú ong thợ xây tổ, trên những đảo đá san hô giữa mênh mông đại dương. Vét chút mùn mục nát có được của một khúc gỗ nào đó trôi dạt về đây từ trăm năm trước, đào từng hốc nhỏ và gieo xuống những mầm xanh, nâng niu chăm bẳm từng ngày để rồi sau mấy chục năm màu xanh cây lá đã biến những hòn đảo đá thành những tín hiệu xanh tin cậy của Tổ quốc, thành điểm tựa cho bà con ngư dân ra khơi biết tìm vào khi gặp dông tố bão bùng, hết dầu, hết nước ngọt…

Trường Sa Đông chỉ là một hòn đảo nhỏ trong rất nhiều đảo nổi, đảo chìm ở quần đảo bão tố này nhưng không hiểu sao nhiều người có ấn tượng sâu sắc. Không chỉ vì tình cảm của mỗi người lính đã dành cho đoàn trong mười mấy giờ trên đảo. Không chỉ là hình ảnh tận tụy của các y bác sĩ trạm xá trên đảo nhiều lần cứu mạng bà con ngư dân gặp hoạn nạn trên biển khơi...Tình cảm thân thương ấy có thể bắt đầu từ hình ảnh nấm mộ những người lính, dù hi sinh vẫn nằm bên chân sóng như muốn cùng đồng đội tiếp tục gìn giữ cõi bờ Tổ quốc.

Cũng có thể hình ảnh cái mỏ neo trên cột mốc chủ quyền bị khuất chìm dưới đất đã thầm kể với mọi người câu chuyện đầy khái quát và biểu tượng về sự bền lòng để biến hòn đảo san hô ngập tràn sắc xanh bóng mát.

Cũng có thể vì đêm liên hoan giao lưu văn nghệ ở Trường Sa Đông rất hồn nhiên, mọi người đã cùng hát vang “Trường Sa Đông nhớ Trường Sơn Tây”, một câu hát thôi mà đồng vọng bao nhiêu yêu thương, như nối dài truyền thuyết ngàn xưa rằng thuở ấy Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh được một trăm con, rồi chia nhau theo mẹ lên rừng theo cha xuống bể làm thành nước Việt hôm nay!

Du lịch, GO! - Theo Tuoitre, internet
Nằm đối diện với hang Trinh Nữ, Hang Trống (vịnh Hạ Long) là nơi gắn liền với câu chuyện truyền thuyết về hang Trinh Nữ.

Dân gian kể rằng: Thuở ấy có một đôi trai gái yêu nhau, vì quá nghèo mà chưa lấy được nhau. Chàng trai nghèo quyết chí ra khơi xa đánh cá để có tiền cưới vợ. Ở nhà bị bố mẹ ép gả cho người khác, cô gái đã bơi thuyền trốn ra biển để tìm người yêu. Trong dông bão, họ đã đến được hai chiếc hang gần nhau và nghe được tiếng gọi, tiếng trống của nhau nhưng rồi sau mấy ngày họ vẫn không tìm được nhau và phải chết trong tuyệt vọng giữa cái mê hồn trận của biển cả, núi đảo trên vịnh.

Con tàu từ từ tiến về Hang Trống, công ty có event cho đoàn khách ăn tối ở đây. Mặc dù đã khảo sát vài lần và biết trước chương trình nhưng đối diện với nơi này khi hoàng hôn vừa tắt thì quả là mình ngỡ ngàng, đẹp thật!

Bước vào vòm hang rộng nhìn lên phía trên thấy trời hơi ngả màu tím, vách đá xung quanh hang được đối tác treo những cái đó bắt cá, bên trong thắp những ngọn nến, tất cả hang màu sắc lung linh mờ ảo. Ban nhạc sống chơi những bản tình ca êm dịu, không khí trong hang trở nên kỳ bí huyễn hoặc, mình cảm thấy mình như ở thế giới khác, xa hết những bộn bề mệt mỏi, xua hết nhưng toan tính bon chen.

Ngay giữa lòng hang Trinh Nữ là bức tượng người con gái bằng đá, nằm xoã mái tóc dài, mắt hướng ra khơi xa đang mỏi mòn chờ mong và tuyệt vọng. Đối diện với hang Trinh Nữ là hang Trống còn được gọi là hang Con Trai, bức tượng chàng trai hoá đá đang quay mặt về phía hang Trinh Nữ vẫn còn, ta như nghe thấy tiếng gào thét tuyệt vọng cùng những âm thanh gõ vào vách đá của chàng vẫn văng vẳng đâu đây.

Những dấu tích của trận cuồng phong đêm đó vẫn còn đến ngày nay - đó là những đổ vỡ của đất đá ngổn ngang trong hang, tiếng gió gầm gào qua vách đá và những bọt sóng vẫn tung lên trắng xoá. Hang Trống còn có di chỉ khảo cổ thuộc nền văn hoá Soi Nhụ, có niên đại cách ngày nay từ 18.000 - 7.000 năm.

Tiệc tan dần, đêm tĩnh lặng, rời hang về tàu ngủ, cả vịnh biển như một thành phố nổi, đèn điện nhấp nháy qua ô cửa sổ của tàu, sóng dập dềnh vỗ mạn tàu, đưa giấc ngủ vào đêm…

Sáng sớm hé mắt qua rèm cửa sổ nhìn về Hang Trống, một cảnh tượng yên bình tĩnh lặng như chưa hề có tiệc tối hôm qua, tất cả như yên lặng… tự nhiên không dám thở mạnh, sợ vụt mất khoảnh khắc của thời gian - khi mà lần đầu tiên thấy biển hiền hòa và e ấp đến vậy!

Nếu có một ngày em là núi
Thì em mong biển sẽ là anh
Tưởng cách xa nhau lại rất gần
Ở nơi ấy núi ngay trong lòng biển.

Hang Trống có 2 cửa rộng thông nhau theo hướng Đông - Tây qua hai vách núi, ở cửa hang phía Đông từ trần rủ xuống những chùm thạch nhũ trắng bạc. Đứng trong hang, nghe thấy tiếng gió lùa vào các lèn đá, dội trở lại vách hang, tạo ra âm thanh như tiếng trống. Hai hang này chẳng những có rất nhiều nhũ đá và cảnh đẹp mà còn gắn liền với một câu chuyện tình cảm động của đôi trai gái dám hi sinh tính mạng để bảo vệ tình yêu.

Du lịch, GO! - Tổng hợp
Thất Sơn - vùng Bảy Núi thuộc tỉnh An Giang, bao gồm 2 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên. Vùng đồi núi trập trùng này từ xa xưa đã chứa đựng bao điều huyền bí, linh thiêng và có mặt nhiều loài thú dữ.

Theo dòng thời gian, nhiều loài thú dữ lần lượt khuất bóng, nhiều điều huyền bí đã được giải mã, song nơi đây vẫn còn đó những hang động gắn liền với bao câu chuyện khiến người ta vừa kể vừa phải... rùng mình!

Vị trí hang Bác Vật Lang:

Ta lên núi Cấm lấy mốc là chùa Phật lớn (Trung tâm hành hương) đi về hướng tây tới chùa mới xây là Vạn Linh (hiện tại xây tượng Phật Di Lặc, với uy thế kỳ quang).

Rời chùa Vạn Linh đi tiếp khoảng vài trăm mét đến chỗ có tấm biển nhỏ có mũi tên, chữ “Hang Ông Thẻ và Bác Vật Lang” từ đó xuống, có dây nương theo mà đến miệng hang.

Chuyện kể rằng, sau khi thám hiểm hang sâu trở lên, Bác Vật Lang không còn nói năng gì nữa cho đến chết, khiến hang động ấy trở nên kỳ bí và được đặt theo tên ông.

Theo tài liệu ghi chép lại, hang Bác Vật Lang là hang sâu và bí ẩn nhất trong rất nhiều hang động trên núi Cấm - An Giang. Mãi cho đến hôm nay, dưới hang này có gì, sâu bao nhiêu và dẫn đến đâu vẫn là điều kỳ bí khiến nhiều người tò mò muốn biết.

Người về từ lòng núi

Bác Vật Lang tên thật là Lưu Văn Lang, sinh năm 1880 ở làng Tân Phú Đông, hạt Sa Đéc (nay là thị xã Sa Đéc, Đồng Tháp). Ông là kỹ sư khoa học đầu tiên là người thuộc địa của Pháp ở Việt Nam và toàn cõi Đông Dương. Lưu Văn Lang rất giỏi về chuyên môn và theo lời đồn đại có khả năng tiên đoán những điều sắp xảy ra, đoán biết thiên cơ... nên được gọi là quan Bác Vật hay Bác Vật Lang (tương đương nhà bác học lúc bấy giờ).

Bác Vật Lang được người Pháp kính nể. Có lần, một đoàn người Pháp tổ chức thám sát các hang trên núi Cấm và ông đi cùng. Đến một hang sâu gần đỉnh núi, mọi người cột dây thừng vào con khỉ rồi thả xuống. Một lúc sau, khi dây đã được thả rất dài thì nhẹ hẳn. Mọi người kéo dây lên thì con khỉ biến mất. Dấu vết để lại cho thấy giống như có ai đó cởi dây trói ra vậy. Đoàn thám sát tiếp tục cột dây vào một con chó thả xuống hang sâu. Đi một lúc sợi dây cũng nhẹ tênh, kéo lên con chó biến mất và dấu vết để lại cũng giống như lần trước. Cả đoàn nhốn nháo, hoang mang lo lắng không biết dưới hang sâu có ác thú hay điều gì kỳ bí nhưng không ai dám thân chinh xuống đó. Bác Vật Lang tự nguyện đi và cho mọi người cột dây vào người mình để thả xuống hang. Đi một lúc, mọi người cũng giật thót người khi sợi dây bị tháo bỏ mà Bác Vật Lang không thấy trở lại. Bóng đêm bao trùm, mọi người mệt mỏi tựa lưng vào vách đá, dán mắt vào miệng hang, hồi hộp...

Trời gần sáng, bất ngờ cả đoàn tỉnh giấc khi phát hiện Bác Vật Lang từ dưới hang sâu bò lên. Vậy là ông vẫn còn sống, nhưng chỉ ú ớ không nói một lời nào. Ông được đưa về bệnh viện ở Sài Gòn chữa trị, sức khỏe có phần bình phục nhưng cũng chẳng nói năng, cũng từ đó mà có câu ca:

Đàn kêu tích tịch tình tang
Đố ai biết được trong hang là gì?
Đàn kêu tích tịch tì tì
Đố ai biết được cái gì trong hang?

Về sau có một đoàn đại diện Giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương tới thăm và hỏi ông đã thấy gì trong hang. Ông trả lời chậm rãi: “Ở dưới núi là một... mâm cơm... dọn sẵn. Trên núi là một... cái lồng bàn, giở ra là... ăn... Các ông ráng... tu”. Đó là những câu nói cuối cùng của ông cho đến ngày nhắm mắt. Bác Vật Lang mất năm 1969 tại quê nhà, thọ 89 tuổi.

Đi hoài không giáp 

Tuy nhiên, vị trí hang Bác Vật Lang trên núi Cấm đến hôm nay vẫn còn nhiều tranh cãi. Những bậc cao niên thì khẳng định hang Bác Vật Lang từng chui xuống nằm ở vồ Bò Hong trên đỉnh núi, bên một vách đá cheo leo, hiểm trở. Người muốn tiếp cận miệng hang phải nắm rễ những cây gừa cổ thụ tuột xuống từ từ và thọt chân vào hang, hiện hang này đã bị lấp kín. Còn hang Bác Vật Lang hiện nay nằm bên trên điện ông Thẻ là không chính xác.

Ông Năm Tân, nhà ở ấp Vồ Đầu, núi Cấm nói những năm trước giải phóng, sư phụ ông (một thầy tu - PV) đã từng làm một chuyến thám hiểm hang Bác Vật Lang trên đỉnh Bò Hong. “Sư phụ tôi xuống hang cả ngày mà đi không giáp. Ông nói hang rất tối, rất rộng và có nhiều lối đi lắm. Thấy không thể thám hiểm được lâu vì không mang theo lương thực, ông đã trở lên”, ông Năm Tân kể.

Chúng tôi trở lại vồ Bò Hong nhưng tìm mãi vẫn không thấy dấu vết của hang này theo lời kể, nên quyết định thám sát hang Bác Vật Lang gần điện Ông Thẻ. Ông Đinh Phi Vân, người sống nhiều năm và rành mọi ngõ ngách trên núi Cấm, dẫn đường cho chúng tôi. Theo quan sát và dựa vào sự mô tả theo các tài liệu ghi chép lại thì hang này cũng rất giống với hang Bác Vật Lang xưa. Miệng hang cũng nằm bên vách đá cheo leo, sừng sững. Đường xuống hang có sợi dây thừng rất to để người thám hiểm có thể từ từ thả người xuống và đu ngược trở lên, nếu cần. Mua cái hột quẹt và 6 cây nến to, chúng tôi bắt đầu chui vào hang núi. Từng người một đánh đu trên sợi dây thừng. Xuống độ gần 10m, cửa hang nhỏ lại vì có một tảng đá chắn ngang. Chúng tôi phải mọp người chui qua tảng đá rồi mất hút vào trong bóng tối. Người trong hang và người bên ngoài không còn nhìn rõ nhau nữa, tiếng nói cũng rất khó nghe.

Cuộc thám hiểm mới thật sự bắt đầu. Cảm giác của tôi rối bời, vừa hứng khởi vừa hoang mang bởi không biết phía trước mình, trong mảng tối ấy có thứ gì, lỡ đối mặt với mãng xà thì làm sao tháo chạy? Bao nhiêu suy nghĩ, lo âu lẫn tò mò cứ vây lấy tôi. Cầm ngọn nến leo lét, tôi cố mở mắt đến hết cỡ để xác định vị trí, dò dẫm từng bước chân trong hang tối. Không khí dường như ngày càng ít lại, chúng tôi bắt đầu nghe mệt, hơi thở dồn dập và ngọn nến cứ tắt liên hồi.

Gần nửa ngày luẩn quẩn trong hang sâu, chỉ có bóng tối bao trùm và không khí ngột ngạt. Chúng tôi vẫn không phát hiện được gì vì tầm nhìn bị hạn chế, chỉ biết bên dưới hang có khá nhiều ngõ ngách, kẹt đá mà theo ông Vân thì cứ đi hoài vẫn còn lối, không sao đi giáp được. 6 ngọn nến và cái hột quẹt mới mua đều đã cháy rụi, sạch hết ga. Chúng tôi không còn gì để soi đường đành phải nhắm hướng có luồng gió nhè nhẹ, chút ánh sáng leo lét đi ra. Lần dò hồi lâu, chúng tôi trở lại được cửa hang, túm lấy sợi dây thừng, ngoi lên khỏi lòng đất đá...

Du lịch, GO! - Theo Thanhnien, ảnh sưu tầm

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống