Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Tuesday, 12 March 2013

Có dịp về đồng bằng sông Cửu Long, bất cứ thời điểm nào bạn cũng có thể thưởng thức các món ăn chế biến từ "cá heo nước ngọt" và chắc chắn bạn sẽ nhớ mãi món ngon đặc trưng miền Tây này.

< Sở dĩ cá có tên gọi như vậy vì bắt cá đem lên bờ, ta nghe những âm thanh “ùng ục... eng éc... ” như tiếng heo kêu.

Nghe lời mời của anh bạn ở ấp Vĩnh Phú, xã Vĩnh Hội Đông, huyện An Phú (An Giang), từ Cần Thơ bốn “phượt thủ” nhóm “du lịch bụi” lên xe máy trực chỉ Châu Đốc. Mất bốn giờ để đến điểm hẹn. Sau khi “tẩy trần” và giải khát, cả nhóm theo bạn tới nhà anh Bùi Chí Vinh (27 tuổi), chủ nhân của 10 lồng bè nuôi cá heo.

Cá heo nước ngọt là loài cá da trơn thường xuất hiện vào mùa nước nổi (khoảng tháng 7 đến tháng 10 âm lịch) ở đồng bằng sông Cửu Long. Chúng có tập quán thích sinh sống nơi có dòng nước chảy mạnh. Cá heo mình dẹt, to nhất cỡ 3 ngón tay người lớn, dài độ 1 tấc, da màu xanh nhạt. Cá cái có đuôi, vây, kỳ màu đỏ cam rất đẹp và có giá trị kinh tế hơn cá heo đực (da có sọc đen).

Theo anh Vinh, Sở dĩ, cá có tên gọi như vậy vì khi lặn xuống nước (hoặc bắt cá đem lên bờ), ta nghe những âm thanh “ùng ục... eng éc... ” tương tự tiếng heo kêu. Vào mùa nước nổi, người dân nơi đây thường đặt dớn, đặt lợp, giăng lưới để đánh bắt. Thịt cá béo, thơm ngon (nhất là da) được các bà nội trợ nơi đây rất ưa chuộng.

< Cá heo nước ngọt.

Cá heo ngày nay không chỉ xuất hiện vào mùa nước nổi mà đã có mặt quanh năm ở chợ vì người dân đã nuôi thương phẩm trong lồng bè. Hiện anh Vinh có 10 lồng bè cỡ 2x3,6 m thả được 200kg cá giống. Thức ăn của cá heo nước ngọt là cá biển trộn cám. Nuôi trong 8-11 tháng, cá đạt trọng lượng 35-40 con/kg thì xuất bán.

Bình quân cứ 1kg cá giống cho được 3kg cá thịt là đạt yêu cầu. Giá mua cá heo hiện 280.000-300.000 đồng/kg, ở các nhà hàng thì bán 450.000-500.000 đồng/kg…

< Vớt cá heo từ lồng bè.

Cá heo chế biến được nhiều món, món nào cũng ngon như cá heo kho sả ớt, cá heo nướng muối ớt, cá heo nấu lẩu cơm mẻ, cá heo kho mẳn (kho ngót) với lá me non... Nhưng được các bà nội trợ miền Tây ưa thích nhất vẫn là cá heo kho tộ và cá heo nướng muối ớt.

Cá còn tươi, dùng dao cắt đầu, vây đuôi, móc sạch ruột, cho cá đã làm sạch vào thau với một ít dấm chua hoặc nước cốt chanh tươi rồi dùng tay chà nhẹ là cá hết nhớt và bớt mùi tanh. Cá vớt ra rửa với nước lạnh vài lần cho sạch, để ráo. Kế đến cho cá vào tộ, ướp gia vị để cá có mùi thơm và màu sắc hấp dẫn. Bắc tộ lên bếp với lửa liu riu đến khi nước rút vào cá sền sệt là có thể nhắc xuống.

< Cá heo kho tộ.

Muốn cho nước cá kho có độ sánh hấp dẫn, thêm bí quyết một muỗng nước cơm vào nữa là đủ. Sau rốt, cho tóp mỡ hoặc dầu ăn, rắc một ít tiêu xay kèm vài trái ớt hiểm chín là xong.

Món cá heo nướng muối ớt thì chế biến dễ dàng và nhanh gọn hơn. Chỉ cần rửa cá cho sạch nhớt, không cần mổ bụng, chặt đầu, đuôi, vi, kỳ. Cho nguyên con vào ướp với muối ớt cùng một tí bột ngọt cho có hương vị đậm đà, để ngấm khoảng 15 phút và cho lên vỉ than nướng. Trở đều tay, khi hai mặt đã vàng, mùi thơm nồng nàn tỏa lên là được!

Lúc này, chỉ cần chuẩn bị ít rau sống (dưa leo, cà chua, xà lách, rau thơm…) cho ra dĩa và gắp cá đặt lên trên. Nếu cần thêm một dĩa tiêu chanh nữa là xong!...

< Cá heo nướng muối ớt.

Trước khung cảnh sông nước hữu tình của miền Tây, còn gì thú vị bằng cùng các “chiến hữu” tụ họp trên bè cá ven sông thưởng thức món cá heo nướng thơm lừng hấp dẫn. Gắp một con cá kèm vài miếng rau sống cho vào miệng nhai từ từ để cảm nhận vị béo của da, ngọt, thơm ngon của thịt cá thấm dần… Thêm một miếng cơm nóng gạo mới dẻo thơm vào nữa, thật tuyệt vời!

Du lịch, GO! - Theo Thanh Tâm (báo Tuổi Trẻ), internet
Nhà cổ Huỳnh Phủ (xã Đại Điền, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre) là một công trình kiến trúc điêu khắc gỗ độc đáo, mang đặc trưng miền sông nước Cửu Long do ông Huỳnh Ngọc Khiêm (1843-1927) để lại.

< Nhà cổ Huỳnh Phủ nay thuộc địa phận xã Đại Điền, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.

Nhà cổ Huỳnh Phủ đã được Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch Việt Nam công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia năm 2011.
Ông Huỳnh Ngọc Khiêm là người miền Trung vào Nam lập nghiệp từ lúc còn tay trắng cho đến khi sự nghiệp giàu có vào bậc nhất ở vùng cù lao Minh và đất Bến Tre lúc bấy giờ.

< Nhà cổ Huỳnh Phủ hiện tại gồm ngôi nhà chính có diện tích trên 500m², theo phong cách “nhà rường” Huế.

Theo những cao niên xã Đại Điền kể lại, việc xây dựng và hoàn thành ngôi nhà có nhiều chuyện đã trở thành giai thoại. Chuyện rằng, người thợ lúc kéo gỗ khởi công làm nhà ăn bưởi và ném hột quanh nhà, hột bưởi nẩy mầm thành cây, lớn lên cho trái chín mà ngôi nhà vẫn chưa xong.

< Họa tiết khắc gỗ là những bức tranh sinh động, mô tả cảnh vật thiên nhiên của vùng sông nước.

Ngôi nhà làm lâu đến mức các thợ lúc dựng nhà còn bé, khi lớn lên được ông đứng ra lo việc vợ con rồi mà vẫn chưa hoàn thành. Theo căn cứ là bức hoành phi mừng tân gia họ Huỳnh của Tri huyện Bảo An Thái Hữu Võ tặng vào năm Giáp Thìn (huyện Bảo An thuộc cù lao Bảo, tỉnh Bến Tre lúc bấy giờ) thì ngôi nhà được hoàn thành trước năm Giáp Thìn (1904). Vì thế, có thể ngôi nhà được xây dựng vào khoảng cuối thập niên 80 hoặc đầu thập niên 90 của thế kỷ XIX.

< Anh Huỳnh Ngọc Hồng, cháu đời thứ 6 rất nhớ những giai thoại về ngôi nhà cổ của dòng họ.

Nhà cổ Huỳnh Phủ hiện tại gồm ngôi nhà chính có diện tích trên 500m2 với một căn phụ bằng gạch nối liền ở góc phải. Nhìn từ bên ngoài và theo các hàng cột phía trước của ngôi nhà, ta thấy có chín gian, nhưng thực ra đây là ngôi nhà ba gian được mở rộng ra bốn phía, một kiểu nhà rất to ngày xưa và chỉ những người thật sự giàu mới có khả năng xây dựng. Nhà xây dựng trên nền cao 0,7m, chung quanh được kè đá xanh, thềm cũng được viền bằng loại đá này.

< Song sắt nhà cổ Huỳnh Phủ mang dáng dấp kiến trúc Pháp.

Nhà có 80 cây cột, trong đó 48 cột gỗ và 32 cột gạch (thay cho cột gỗ bị hư hỏng vào những năm 1945 - 1954), làm theo kiểu nhà nhà rường ở Huế. Hai hàng cột cái gồm 8 cây đứng song song nhau. Các cây cột cái cao trên 5,5m, chu vi 1,2m, gắn kết với nhau từng cặp theo chiều ngang bởi các cây trính và theo chiều dọc mỗi hàng có một thanh gỗ dài xuyên qua bốn cây cột. Mái lợp ngói âm dương, bên dưới là lớp ngói có hoa văn. Hai đầu song được xây kín và trang trí hình một bông hoa 4 cánh.

< Mái lợp ngói âm dương, bên dưới là lớp ngói có hoa văn.

Nội thất và sườn nhà làm bằng các loại gỗ có giá trị cao như: lim, thau lau. Nội thất chia thành 2 phần: từ cột nhất của mặt hậu vào phục vụ sinh hoạt gia đình, từ cột nhất của mặt hậu trở ra cột hàng nhì của mặt tiền sử dụng vào việc thờ tự. Phía tả thờ Cửu Huyền Thất Tổ, giữa thờ Phật Bà Quan Âm, phía hữu thờ ông, bà Huỳnh Ngọc Khiêm.

< Công đoạn chạm khắc gỗ đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật.

Khánh thờ Phật Bà Quan Âm chạm trổ long, lân, phụng theo lối song phụng tranh châu, nền đế là hai kỳ lân đối diện, cùng nhe nanh, mặt hướng ra ngoài, chân trụ chạm rồng ba móng, mặt hướng lên trên (theo truyền tụng rồng ba móng thường dành cho dân thượng lưu, rồng bốn móng dành cho quan lại, rồng năm móng dành cho vua).

< Các vật dụng trong nhà cổ Huỳnh Phủ toát lên vẻ cổ kính.

Tất cả các bức hoành phi, bài vị, biển đề… đều viết bằng chữ Hán, khắc vào gỗ, chạm trổ hoa văn công phu, sơn son thiếp vàng, có tuổi đời tương đương với tuổi thọ ngôi nhà. Các tấm chạm đã đạt tới trình độ cao của nghệ thuật chạm khắc gỗ. Đó là những bức tranh sinh động mô tả cảnh vật thiên nhiên vùng sông nước, của vùng đất cù lao bốn mùa cây xanh, trái ngọt, cảnh vật thanh bình, chim muôn ca hát, cùng các loại sinh vật khác...

< Bộ bàn ghế cổ khảm xà cừ và đá với các họa tiết cầu kỳ, tinh xảo.

Tiền công thù lao cho thợ không tính bằng ngày công mà tính bằng khối lượng dăm bào sau một ngày lao động. Mỗi chén dăm bào được trả 5 cắc bạc, riêng thợ cái được trả 2 đồng/ngày, cơm nước chủ nhà đài thọ (thời gian này một giạ lúa bằng 1,8 cắc bạc). Ông Huỳnh Ngọc Khiêm vốn là người tỉ mỉ nên dù giá công cao nhưng thợ không được làm quá một chén dăm bào/ngày vì như vậy cho là làm dối.

< Phong cách điêu khắc nhà rường” Huế.

Cách trang trí nhà cổ Huỳnh Phủ thể hiện sự phóng khoáng của các bậc thầy trong việc kết hợp đề tài dân dã là các loài động, thực vật quen thuộc với cuộc sống hàng ngày của cư dân địa phương như chuồn chuồn, chim, mãng cầu… xen với các đề tài theo khuôn mẫu đã có như tứ linh, tứ quý, tứ thời...

< Anh Huỳnh Ngọc Hồng, cháu đời thứ 6, thăm non và chăm sóc hai ngôi mộ tổ tiên.

Các mô típ phương Tây cũng xuất hiện một cách nhuần nhuyễn như hoa hồng, nho, sóc, chuỗi ngọc... Đây là một di tích kiến trúc có nhiều chất liệu mỹ thuật quý giá, đánh dấu một giai đoạn trong lịch sử trang trí của mỹ thuật truyền thống Việt Nam tại Nam Bộ.

< Phù điêu kỳ lân trên ngôi mộ cổ.

< Bức họa chân dung ông bà Huỳnh Ngọc Khiêm, người đã cho xây dựng nhà cổ Huỳnh Phủ.

Khu mộ cách ngôi nhà cổ 3km thuộc xã Phú Khánh có diện tích 966m2, được xây  năm Tân Hợi (1911). Vật liệu xây dựng là đá xanh từ hàng rào bên ngoài cho đến phần lăng mộ bên trong. Rào cao khoảng 1,5m gồm 2 phần: phần trên là những thanh đá được cắt hình chữ nhật hoặc hình tam giác, phần dưới là những phiến đá nguyên.

Hai ngôi mộ của ông bà Huỳnh Ngọc Khiêm làm giống nhau theo kiểu lăng mộ với tường đá cao bao bọc xung quanh. Chân mộ là tấm bia cao 1,5m, rộng 1,2m, có mái che với hoa văn trên nóc và chân bia. Tất cả đều được chạm khắc tinh xảo trên chất liệu đá.

Du lịch, GO! - Theo Nguyễn Oanh,Lê Minh, Nguyễn Luân (Vietnam.vnanet)
Từ xưa, Tân Châu đã nổi tiếng với nghề ươm tơ dệt lụa. Đây cũng chính là nơi sáng tạo nên loại lụa Mỹ A nổi tiếng một thời.

Theo những người lớn tuổi kể lại thì ngày xưa, chị em phụ nữ mà có được một bộ quần áo may bằng lãnh Mỹ A thì thật là sang trọng. Bộ quần áo ấy chỉ dành để mặc vào những ngày lễ, tết. So với lãnh Mỹ A, vải "xá xị Xiêm" - một loại lụa Thái Lan nổi tiếng thời đó - cũng không sánh bằng.

Bên nàng mặc lãnh Mỹ A
Đưa đò sang chợ, tưởng xa hóa gần.

Câu ca truyền miệng từ xưa quanh các bến đò ngang ở đất Tân Châu này chắc hẳn nhiều người còn nhớ. Đó không chỉ là lời tán tỉnh cô gái đẹp của anh lái đò, mà câu ca còn hàm ý kết luận rằng "người đẹp nhờ lụa"... Mà phải là lụa Tân Châu mới càng làm tôn thêm nét duyên dáng, đến nỗi chàng lái đò cảm thấy dòng sông như ngắn lại khi có cô gái mặc lãnh Mỹ A ngồi cạnh.

Khi nghiên cứu về làng nghề của quê hương, nhà văn Mai Văn Tạo mới biết rằng, có một thời, lụa Tân Châu từng có mặt ở Singapor, Philippin và cả quốc gia nổi tiếng về nghề dệt vải là Ấn Độ, bởi nó được giới thượng lưu và hoàng tộc thời đó rất yêu thích.

Sáng trăng trải chiếu hai hàng
Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ
Quay tơ phải giữ mối tơ
Dẫu năm bảy mối cũng chờ mối anh...

Khung cảnh thanh bình trong bài thơ trên là hình ảnh thời kỳ đầu của nghề ươm tơ, dệt lụa ở Tân Châu. Thời đó, người ta dệt lụa theo khung dệt cổ.

Khổ vải dệt ra chỉ rộng khoảng bốn tấc, khi may quần áo phải nối vải nên không đẹp. Dần dần, làng nghề tạo ra khung dệt khổ 8 tấc, rồi 9 tấc, đồng thời nghiên cứu làm cho lụa đẹp hơn, bền hơn với nhiều hoa văn tinh xảo như: cẩm tự, hoa dâu, hoa cúc, mặt võng, mặt đệm v.v...

Độc đáo nhất có lẽ là kỹ thuật nhuộm lụa từ trái mặc nưa, một kỹ thuật làm cho lụa Tân Châu đen tuyền, óng ả, quần áo mặc đến rách mà vải vẫn không bị xuống màu. Đây chính là phát kiến của người làng nghề xưa, nền tảng khiến cho lụa Tân Châu nổi tiếng một thời. Nhưng cho đến bây giờ, không ai biết chính xác người nào đã tìm ra cách nhuộm này. Chỉ biết rằng hồi đó, mỗi năm, người làng nghề phải qua Campuchia mua hàng trăm tấn trái mặc nưa mới đủ dùng. Sau này, người Việt trồng thử, thấy được nên trồng nhiều đến ngày nay.

Theo tư liệu thì trước năm 1945, ở Tân Châu đã có "nhà tằm" lớn của tư nhân, thu hút nhiều thợ ươm tơ, thợ dệt, thợ nhuộm vào làm. Rồi từ "nhà tằm" này, những người thợ học hỏi, trao đổi kinh nghiệm tay nghề cho nhau. Đến thập niên 1960 thì ở Tân Châu đã có hàng trăm nhà dệt quy mô lớn nhỏ khác nhau. Nhiều nhà dệt tiếng tăm còn mãi đến bây giờ như Đỗ Phước Hòa, Trần Văn Tôn, Trịnh Thế Nhân, Trần Văn Nho v.v... Một số con cháu của họ vẫn còn nối nghiệp gia đình đến ngày nay.

Lụa Tân Châu nổi tiếng nhờ dệt bằng tơ tằm. Để có những cuộn tơ vàng óng ả, người Tân Châu đã phải trải qua những tháng ngày trồng dâu nuôi tằm vất vả quanh năm. Có những năm, ruộng dâu trồng đến hơn 10.000 hecta, trải dài từ Tân Châu, Chợ Mới đến tận biên giới Campuchia, mới đủ cung cấp cho tằm ăn.

Nghề nào cũng vất vả, cũng phải chịu gian nan, khổ cực mới gặt hái được thành công. Với người Tân Châu, nghề trồng dâu nuôi tằm cũng khá vất vả. Từng có câu tục ngữ : "Làm ruộng ăn cơm nằm, làm tằm ăn cơm đứng". Tằm phải được chăm sóc suốt ngày đêm, nhất là trong giai đoạn đưa tằm lên bủa giăng tơ. Tuy nhiên, đây cũng là giai đoạn vui nhất của làng nghề, cũng giống như ngày nông dân ra đồng thu hoạch vụ mùa.

Sau những bước thăng trầm, làng nghề tơ lụa Tân Châu nay lại được vực dậy, con tằm lại tiếp tục nhả tơ. Ruộng dâu, vườn mặc nưa sống lại. Không những vậy, làng nghề phải nhập thêm kén ươm từ Bảo Lộc, Lâm Đồng về mới đủ cung cấp cho nhu cầu sản xuất. Tuy nhiên, nếu đem so sánh với các mặt hàng vải vóc hiện đại và đa dạng ngày nay, tơ lụa Tân Châu tỏ ra là một loại hàng khiêm tốn. Nó kén chọn người tiêu dùng, hoặc chủ yếu đáp ứng cho các trào lưu.

Đối với các nhà thiết kế thời trang chuyên nghiệp thì lụa Tân Châu là một sản phẩm thuần Việt, đậm đà tính dân tộc và là niềm tự hào của người Việt nếu chúng ta biết sử dụng chính lụa Việt Nam để tô đẹp thêm nét duyên dáng của phụ nữ Việt Nam.

Nhà thiết kế thời trang Võ Việt Chung đã chọn tơ lụa Tân Châu làm chất liệu chính trong nhiều chương trình giới thiệu thời trang và anh đã thành công ngoài sự mong đợi. Chính sự mềm mại và hoa văn phong phú, độc đáo của lụa Tân Châu đã gợi nên những ý tưởng sáng tạo trong anh. Những mẫu thiết kế bằng chất liệu lụa Tân Châu của anh đã được giới thiệu trong đợt Liên hoan Du lịch ĐBSCL tại An Giang.

Ngày nay, lụa Tân Châu đang từng bước tìm lại sức sống xưa của mình. So với thập niên 50 - 60 thì sản lượng còn kém xa, nhưng chất lượng tơ lụa thì đã ngang tầm với những quốc gia có ngành tơ lụa phát triển.

Những sản phẩm bền và đẹp như hiện nay là kết quả của cả một quá trình người làng nghề không ngừng học hỏi, đổi mới công nghệ và luôn tìm ý tưởng sáng tạo nên những mẫu mã mới, đáp ứng nhu cầu của khách hàng.

Du lịch, GO! - Theo Sở Văn hóa Thông tin - Du lịch An Giang, ảnh internet
Hải Phòng là quê hương của danh nhân văn hóa Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và là nơi có khu di tích Ðền Trạng nổi tiếng tại thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo.

< Tượng danh nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Ðây hiện là một trong những điểm đến du lịch văn hóa, tâm linh thu hút đông du khách trong chương trình du khảo đồng quê của ngành du lịch thành phố.

Ðền Trạng được xây dựng từ khoảng năm 1586, sau đó đã được trùng tu qua các đời và đã được Nhà nước xếp hạng Di tích cấp quốc gia từ năm 1991.

Cuối năm 2000, kỷ niệm 415 năm Ngày mất của Trạng Trình, UBND TP Hải Phòng đã phê duyệt kế hoạch nâng cấp quần thể di tích danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm với các hạng mục công trình: Quán Trung Tân, mộ phần cụ Nguyễn Văn Ðịnh (thân phụ Nguyễn Bỉnh Khiêm), khu vực tượng đài Nguyễn Bỉnh Khiêm, chùa Song Mai, nơi phu nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tu hành.

Ðường đi được làm lại, khuôn viên, vườn cây lưu niệm được quy hoạch với cảnh quan đẹp và khang trang. Việc quy hoạch, trùng tu, xây dựng khu di tích Ðền Trạng thể hiện cao nhất tính lịch sử, giá trị văn hóa, đồng thời nắm bắt được những nhu cầu hàng đầu của du khách khi về thăm Ðền Trạng.

Chương trình du lịch đồng quê Hải Phòng đang trở thành một sản phẩm du lịch đặc thù với điểm nhấn hấp dẫn là khu di tích Ðền Trạng, thờ Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491- 1585), vị Trạng nguyên lỗi lạc, một danh nhân văn hóa lớn của đất nước.

Không chỉ được biết đến là một nhà thơ, nhà triết học, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là ông Trạng của dân gian qua 300 câu sấm Trạng lưu truyền đời này sang đời khác. Không sa vào mê tín, thần bí, nhưng việc khôi phục sự hấp dẫn về văn hóa tâm linh, cắt nghĩa một cách có cơ sở triết học, suy tôn một danh nhân văn hóa dân tộc là cần thiết để hướng dẫn du khách khi đến nơi đây thành kính thắp nén hương tưởng nhớ, tìm hiểu và nghe bình sấm Trạng, lôi cuốn du khách với mục đích hướng thiện.

Thăm khu di tích, nghe về thơ văn, thân thế sự nghiệp của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, du khách còn được thưởng thức cả hương vị ẩm thực của quê hương Trạng. Người dân Vĩnh Bảo khéo tay, hay làm, chế biến nhiều món ăn đồ uống địa phương đa dạng, sẽ làm hài lòng du khách.

Khu di tích Ðền Trạng được giữ gìn, trùng tu, xây dựng và khai thác trong phát triển du lịch, đã và đang là trọng tâm của tuyến du lịch du khảo đồng quê Hải Phòng với các điểm du lịch phụ cận phong phú như xem rối cạn Bảo Hà, rối nước Nhân Hòa, thăm Ðình Nhân Mục, làng nghề tạc tượng Ðồng Minh ở Vĩnh Bảo và kéo dài tuyến ra Núi voi Kiến An, Ðồ Sơn, Cát Bà, làm nên nét đặc sắc không đâu có ngoài Hải Phòng.

Ngoài ra rượu Trạng Trình, cơm niêu, mái rạ, đàn bầu quê Trạng cùng những lời thơ, bia ký, Sấm truyền của Trạng và mở rộng hơn là những giá trị văn hóa tốt đẹp của vùng nông thôn duyên hải đang theo chân du khách đi khắp mọi miền đất nước, đến với bầu bạn năm châu, làm rạng danh quê hương, con người đất Trạng, góp phần phát triển du lịch Hải Phòng.

Du lịch, GO! - Theo Haiphonginfo, ảnh internet
Sông Ròn chảy qua các xã vùng bắc huyện Quảng Trạch, Quảng Bình mang lại bao nhiêu là của ngon vật lạ, trong đó có con sò huyết.

1. Người dân vùng Ròn tin rằng, trời đã ban cho vùng đất này một thế núi hình sông tuyệt đẹp, họ hay dùng cụm từ sông Loan núi Phượng để tự hào về quê hương mình. Núi Phượng nằm trên dãy Hoành Sơn hùng vĩ đâm ra biển, án ngữ trên hành trình thiên lý Bắc Nam.
Dương Văn An đã miêu tả: “Núi Hoành Sơn ở Châu Bố Chính gần xã Sơn Tiêu, tiếp giáp với Nghệ An. Núi này chạy dài từ núi tổ, thế như rồng cuốn hổ ngồi, trùng trùng điệp điệp kéo mãi ra đến tận biển. Vách đứng cao vạn nhận (cứ 8 thước là 1 nhận) nom giống như bức tường thành, án ngữ cả một vùng phương Nam”.

Tuy nhiên, ít ai biết ngọn nguồn con sò huyết ở sông Ròn. Trong Ô châu cận lục không thấy nhắc đến sò huyết, chỉ nói vùng cửa biển Di Luân có nhiều ngao, cua, cá, mắm muối, tôm hùm. Cho đến Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn thì sò huyết mới xuất hiện. Sách có đoạn: “Cửa biển châu Bắc Bố chính xưa không có sò. Từ thời Hiền quận công Nguyễn Khắc Liệt trấn thủ, sai ba chiếc thuyền ra Quảng Yên, giáp với Khâm Châu lấy về bỏ ở cửa biển Di Luân (cửa Ròn), đến nay xứ ấy mới có sò”.

Dù lý do thế nào thì sò huyết sông Ròn cũng quá nổi danh, là của quý đối với người vùng Ròn. Trên một trang cá nhân, Trần Lý Minh viết: “Ngày trước, chúng tôi đi mò cua, cá đụng phải sò thì bắt luôn. Theo quy định của hội mò sò, mỗi thợ mò dành ra năm con sò đầu tiên bắt được, góp lại vào một cái giỏ, để riêng ra ngâm vào nước. Lúc tan cuộc mò thì những con sò đầu tiên đã nhả sạch bùn. Vớt sò lên, cả hội cùng nhau trèo lên một cái chòi cất rớ tàu, chuẩn bị chế biến cho bữa tiệc sò tươi sống. Thợ mò dùng dao nhỏ tách đôi sò ra cho thật khéo, không để huyết sò chảy ra. Xong, vắt chanh vào thịt sò được nhuộm đỏ tươi màu huyết, đợi vài phút cho thịt chín hẳn mới ăn. Khỏi phải nói, món sò sống vắt chanh rất ngọt.”.

2. Cất công đi tìm hiểu vùng Ròn, tôi mới biết có nhiều chuyện lạ về con người như đất vậy. Ở xã Quảng Tùng, ngay bên mép sông có một cựu chiến binh tuổi ngoài 50, giọng nói sang sảng, tay chân phốp pháp khỏe mạnh. Ở vùng này và nhiều nơi khác ai chả biết đến ông; bước chân ông cũng đã đến gần như khắp năm châu bốn bể. Ông rất tâm huyết với con sò huyết sông Ròn, là người duy nhất nuôi sò huyết với thâm niên mười mấy năm. Có thời điểm, một tuần ông phải đi máy bay 3 chuyến vào miền Nam mua giống về nuôi.

Lúc chưa có sân bay Đồng Hới, ông đón xe đò vào Huế, lên máy bay đi TP.HCM, sau đó tiếp tục đón xe đò về Rạch Giá, Kiên Giang mua sò. Mỗi chuyến ông mua đến 4 tạ giống với giá 3 triệu đồng/kg. Về nuôi khoảng 6 tháng thì xuất bán. Ông bảo, nếu nuôi được 1 năm thì nó sống đến 1 tháng dù đưa đi bất cứ đâu, trong khi sò các nơi khác chỉ sống được khoảng 10 ngày là chết. Sò sông Ròn tròn đẹp, dù con giống có thể méo nhưng sau quá trình sinh trưởng lại tròn và huyết đầy. Ông là Phạm Ngọc Xuân, người ta hay gọi “Xuân sò”. Nhờ nuôi sò mà ông được UBND huyện, Hội Nông dân huyện tặng bằng khen.

Nhiều người lý giải, sò huyết sông Ròn ngon là do hình sông thế núi tạo ra nơi gặp gỡ diệu kỳ giữa 2 con nước mặn và ngọt. Vùng đất này xưa kia cũng là nơi thương thuyền nghỉ ngơi, quân lính đồn trú. Chính vì thế, mỗi lần vua quan đi qua dừng chân đều được dân địa phương dâng sò huyết thưởng thức.

Ông Xuân bảo, dịp tết Nguyên đán tiêu thụ sò nhiều nhất, cứ khoảng 25 đến 29 tết bán đến hơn 10 tạ. Theo lời truyền tụng, ngoài ngon bổ dưỡng, sò còn mang lại may mắn, “đỏ” cả năm cho người ăn khai xuân. Đặc biệt, đấng mày râu còn rỉ tai nhau sò là “Viagra tự nhiên”.

3. Ăn, với người Quảng Trạch cũng chẳng giống nơi nào. Đó là món sò huyết mù tạt, ông Xuân bảo đi khắp nơi từ bắc chí nam cũng chưa thấy nơi nào chế biến kiểu như ở quê ông. Sò huyết đắt, thường được gom bán cho nhà hàng nên muốn ăn phải tìm đến quán.

Hỏi quán mệ Mận ở thị trấn Ba Đồn thì nhiều người biết mặc dù quán chẳng ra quán, cũng không hề có bảng biển. Chủ quán là vợ chồng ông bà Ngự-Mận. Hai ông bà tỉ mẩn cắt từng loại phụ gia sẵn sàng, khách muốn ăn nhanh thì điện thoại báo giờ trước cho ông bà chuẩn bị. Khách đến, trong khi bà Mận trụng sò qua nước sôi và ngồi tách sò ra chén thì ông Ngự đổ mù tạt ra chén đầy xì dầu rồi đánh cho tan đều. Sò chần qua nước sôi với bí quyết và bàn tay khéo léo của bà Mận nên không quá chín, thịt và huyết còn tươi. Ai chưa quen, ông Ngự ngồi hướng dẫn cách ăn luôn, vừa làm ông vừa đọc mấy câu thơ: Sò huyết cháo lươn quán không tên/Quán không bàn ghế chiếu trải nền/Quý khách gần xa thăm ghé quán/Dẫu một đôi lần quán chẳng quên.

Hành, ngò, rau quế, giá đỗ sống, nộm chua, tỏi sát mỏng, gừng cắt nhỏ, đậu lạc, dứa thơm, bắp chuối tươi mỗi thứ một ít cho vào chén rồi lấy thìa múc 1 con sò cả huyết bỏ lên, sau đó múc nước mù tạt rải, nặn thêm ít giọt chanh tươi nữa và trộn đều.

Tiếp theo, dĩ nhiên cho vào miệng nhai thưởng vị. Thịt sò mát, béo lịm quyện với vị chua chua của nộm đu đủ, cay của gừng, chát của bắp chuối, vị nồng của mù tạt ngào ngạt trong vòm miệng. Nhai vừa đủ mù tạt xông lên mũi thì nuốt ực. Làm thêm ngụm rượu men riềng pha bột sắn dây của xứ Quảng Châu vào, lúc này mồ hôi cũng vừa toát ra khiến tâm hồn lâng lâng khó tả.

Du lịch, GO! - Theo Trương Quang Nam (báo Thanh Niên), internet

Monday, 11 March 2013

Nếu chẳng may khi rút tiền ở một đất nước xa xôi, chiếc máy ATM bỗng dưng "nuốt" mất thẻ. Bạn phải làm gì?

Khi đi du lịch, có những điều bất ngờ xảy ra về vấn đề tiền bạc mà đôi khi bạn không thể lường trước được. Ví dụ như bạn sử dụng máy ATM tại một vùng xa xôi của thế giới và nó nuốt mất thẻ của bạn. Bạn sẽ làm gì lúc đó khi bạn đã đặt chỗ trên tàu để rời đi vào lúc 8h sáng và ngân hàng chỉ mở cửa lúc 9h.
Tất cả những gì bạn còn trong túi chỉ là một vài ghi chú và những hóa đơn. Vậy bạn cần phải làm gì đây? Tốt nhất nên có kế hoạch B để đề phòng những bất trắc xảy ra đặc biệt là đối với tiền. Dưới đây là một số cách để giữ an toàn cho tiền của bạn trên đường đi du lịch.

1. Cách mang theo tiền mặt

Một quy tắc vàng khi mang theo tiền mặt là không bao giờ được giữ tất cả tiền trong một túi hoặc ví của bạn. Nếu bạn bị cướp túi hoặc ví, bạn sẽ mất tất cả. Thậm chí nếu bạn có kế hoạch sử dụng thẻ ngân hàng cho mọi thứ chi tiêu thì việc mang theo một số lượng tiền mặt nhất định cũng là hữu ích.

Mọi người đều có các thủ thuật để cất giấu tiền. Có người thì cho tiền vào thắt lưng, túi bí mật hoặc trong một ống đựng phim cũ để trong túi giặt. Bạn đã từng thấy ai ăn cắp một cái túi giặt chưa?

Đô la Mỹ, bảng Anh và đồng Euro là những đồng tiền dễ đổi nhất đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Thậm chí nếu tất cả các ngân hàng và những nơi đổi tiền đều đóng cửa, bạn vẫn có thể tìm được người bán hàng sẵn sàng nhận đồng tiền loại này để có thể mua được hàng. Giữ đủ số tiền mặt mang theo để có thể hỗ trợ bạn trong nhiều ngày và sử dụng khi bạn có những rủi ro bất ngờ.

2. Đi du lịch bằng thẻ

Nếu bạn muốn dựa vào thẻ để đi du lịch, dưới đây là một vài quy tắc đơn giản mà bạn nên tuân theo:
- Hãy chắc chắn rằng thẻ tín dụng hoặc thẻ ghi nợ của bạn được chấp nhận sử dụng ở đất nước bạn đến thăm.

- Gọi cho ngân hàng của bạn và nói với họ rằng nơi bạn sẽ đến, thời gian bạn đi để họ không khóa thẻ của bạn khi lần đầu tiên bạn sử dụng thẻ đi du lịch. Nhiều ngân hàng cho phép bạn làm trực tuyến điều này.

- Không bao giờ được để thẻ rời khỏi tầm mắt của bạn.

- Giữ số điện thoại khẩn cấp như số điện thoại của ngân hàng, cảnh sát địa phương và quốc tế để có thể báo mất thẻ hoặc hủy bỏ thẻ của bạn nếu cần thiết.

- Kiểm tra bàn phím trên máy ATM. Rất nhiều du khách bị nuốt mất thẻ bởi việc nhập sai các con số do các bàn phím máy ATM nước ngoài khác với trong nước.

- Luôn luôn mang theo tiền mặt hoặc séc khi đi du lịch.

- Hãy nhớ nhận biết các loại phí của ngân hàng vì ngân hàng đòi phí cho mọi khoản tiền rút ra.

3. Đổi séc để du lịch

Tiền mặt rất tốt trong những trường hợp khẩn cấp, không có bất lợi nào lớn ngoại trừ việc nếu bị mất cắp bạn sẽ không bao giờ nhìn thấy nó một lần nữa. Séc du lịch được chập nhận bởi mọi ngân hàng và các nơi đổi tiền ở tất cả mọi nơi trên thế giới và dễ dàng được thay thế khi bị mất hoặc đánh cắp.

Vì vậy nếu bạn có biên lai và số điện thoại khẩn cấp, bạn sẽ nhận được ngân phiếu mới trong một vài ngày. Tuy nhiên bạn có thể phải đi đến một cơ quan địa phương nào đó để lấy chúng.

Sự có mặt trên toàn cầu của máy ATM thậm chí là có cả ở trên dãy Himalaya đã khiến ít người sử dụng séc. Séc không còn được chấp nhận rộng rãi như chúng đã từng được sử dụng. Trước khi bạn mua séc, hãy liên hệ với các tổ chức phát hành để kiểm tra xem chúng có được chấp nhận ở nơi bạn đến hay không.

Nếu bạn còn nghi ngờ, có thể mang theo séc bằng đô la Mỹ. Bạn nên mang theo nhiều loại tiền, giữ các biên lai rõ ràng từ việc thanh toán bằng séc và lưu số điện thoại khẩn cấp của một nơi nào đó cho an toàn.

4. Ở các nước chỉ sử dụng tiền mặt

Tất nhiên là có một số nước thì tiền mặt là thứ duy nhất được sử dụng. Có một số nơi ở châu Phi hoặc châu Á vẫn chưa có mạng lưới ATM toàn cầu do đó tiền là thứ duy nhất được sử dụng. Hầu hết các nước đều có giới hạn về số tiền xuất nhập cảnh. Hãy nghiên cứu kỹ.

Hãy thực hiện các quy tắc vàng cho việc đi du lịch với các vật có giá trị. Hãy thận trọng với tiền mặt của bạn. Chỉ mang theo lượng tiền đủ dùng trong ngày còn đâu là giữ ở trong két sắt của khách sạn. Trong khi di chuyển, chia tiền của bạn thành nhiều túi riêng và giữ chúng ở nhiều nơi.

Hãy mang theo loại tiền tệ mà bạn có thể thay đổi ở bất cứ nơi nào. Mang theo séc và luôn luôn khóa cửa phòng bạn vào buổi tối.

5. Chuyển phát tiền

Nếu tất cả các kế hoạch phòng bị của bạn thất bại, bạn có thể yêu cầu một người nào đó gửi tiền cho bạn. Western Union và MoneyGram có đại lý trên toàn thế giới, nơi bạn có thể nhận được chuyển khoản từ nhà, nhưng bạn phải trả một phí bảo hiểm cho dịch vụ này - đôi khi hơn 30% số tiền chuyển đến.

Du lịch, GO! - Theo MASK, ảnh internet
Nằm trong phạm vi 100 – 120km, nhưng không như Vũng Tàu thường quá tải vào dịp tết, các biển như Tân Thành, Thới Thuận... khá vắng là lựa chọn thú vị cho một ngày đổi gió.

Biển Cần Giờ

Trong phạm vi nói trên thì biển Cần Giờ là đích đến nhanh nhất (khoảng 1h30 phút). Biển Cần Giờ mang nét đẹp của một bãi biển cát đen, sóng nhẹ và hàng dương xanh rì rào trong gió. Huyện Cần Giờ tiếp cận với biển Đông hiện hữu một khu rừng ngập mặn đan xen với hệ thống sông rạch dày đặc chứa đựng các hệ sinh thái mang tính đa dạng sinh học cao với nhiều loài động thực vật đặc hữu của miền duyên hải Việt Nam, đó là khu rừng ngập mặn Cần Giờ.

Ngoài điểm cộng về thời gian, trên đường ra biển, nếu thích bạn có thể tham quan rừng sát, đảo Khỉ...

Biển Tân Thành

Từ Sài Gòn về Gò Công theo con đường qua bắc Mỹ Lợi dài khoảng 60 cây số là tới thị xã Gò Công; đi thêm 16 cây số nữa sẽ tới Tân Thành.

Cũng là một trong những biển mới hình thành, nước biển tân thành có màu đục do cát đen. Chưa kể đoạn bờ kè dài gần 300m có tác dụng chống sạt lở ảnh hưởng khá nhiều đến mỹ quan của bờ biển. Song bạn vẫn có thể hoà mình vào biển với những trò chơi thú vị.

Sau khi tắm biển thoả thuê, đừng bỏ quên việc tham gia cào nghêu với dân địa phương. Nếu chịu khó, bạn có thể thưởng thức vài ký nghêu thành quả của mình. Đó sẽ là kỷ niệm tuyệt vời của chuyến đi.

Biển Thới Thuận

Thường được nhắc đến với vùng đất 2 cù lao, song ít người biết rằng Bến Tre cũng có một xã giáp biển là Thới Thuận. Sự kết hợp giữa biển và phù sa mang đến cho vùng biển này một màu sắc khá lạ mà ngư dân và du khách thường gọi là “biển đỏ”.

Thới Thuận cũng là làng có bãi nghêu lớn nhất nước, bãi này nằm vắt bên bờ biển xã Thới Thuận (huyện Bình Đại, Bến Tre) có chiều dài hơn 10 km, rộng hơn 5 km, với sản lượng khai thác hàng năm trên dưới 8.000 tấn nghêu giống lẫn nghêu thương phẩm.

Biển Lộc An

Thuộc địa phận 2 xã Lộc An, huyện Ðất Ðỏ và Phước Bửu huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, bãi biển Lộc An tuyệt đẹp với làn nước trong xanh, bờ cát trắng, những con sóng mạnh, rừng dương bạt ngàn. Ngoài ra, đến đây trong dịp này, bạn sẽ được thưởng lãm bức tranh hàng trăm cây hoa anh đào khoe sắc trên đường.

Lộc An vừa có biển, có sông, có rừng nên rất phù hợp với loại hình du lịch sinh thái và về nguồn của giới trẻ. Bạn có thể đi thuyền trên vàm sông Ray, leo núi tham quan núi Minh Đạm cách đó chừng vài kilômet.

Biển Phước Hải

Để đến được Phước Hải, từ TP.HCM, bạn chạy theo  quốc lộ 51C (đường ra Vũng Tàu), đến ngã 5 thị xã Bà Rịa thì theo đường Trường Chinh, đến dường đường 44 ra Long Hải. Chạy tiếp đường 44 ven biển khoảng 7.5km nữa sẽ đến chợ Phước Hải (tính từ Mộ Cô - Long Hải), đi tiếp thì đến biển.

Phước Hải sở hữu đầy đủ những nét duyên của một bãi biển đẹp, hoang sơ và quyến rũ với du khách. Ngoài ra, hầu hết cư dân ở đây sống gắn với biển nên mỗi buổi sáng hay chiều, khi thuyền về, bạn có thể tận tay chọn những hải sản tươi rói cho thú vui ẩm thực của mình.

Long Sơn

Long Sơn cách TP.HCM khoảng 100km, là một xã đảo thuộc thành phố Vũng Tàu. Ngoài những bờ biển đẹp, đến Long Sơn, bạn còn được chiêm ngưỡng một vùng sông nước hữu tình, nên thơ với những dãy núi trập trùng hoà cùng những khu rừng ngập mặn, những cụ già vận áo bà ba tóc búi củ hành chân chất, ngôi nhà lớn tuyệt đẹp.... Đặc biệt, bạn còn được tham quan và thưởng thức những con hàu nướng tươi ngọt tại làng hàu Long Sơn.

Hồ Tràm

Hồ Tràm là dải bờ biển dài nằm giữa Long Hải và Bình Châu, trên địa bàn huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Từ thành phố biển Vũng Tàu đến Hồ Tràm tròm trèm 30km. Đây là con đường ven biển, đi qua nhiều khu dân cư. Đường được trải nhựa phẳng lỳ, rất thuận tiện cho khách vừa rong ruổi và chiêm ngưỡng cảnh đẹp…

Được khai thác những năm gần đây, nhưng vẫn được ít người biết đến do vắng và ít dịch vụ. Song bạn sẽ nhanh chóng quên đi những ưu tư lo lắng của cuộc sống với thiên nhiên ban sơ của bờ cát trắng mịn và làn nước xanh như ngọc, của rừng dương xanh mát, của những làn gió lồng lộng từ biển.

Du lịch, GO! - Theo Huỳnh Hằng (Infonet) và nhiều nguồn tin khác.
Dù nhiều món ăn lạ và sang trọng của giới thượng lưu và vua chúa Chăm ngày xưa đã thất truyền nhưng nay, ở mọi cộng đồng Chăm đều vẫn còn truyền lưu và ưa thích một số món ngon, trong đó đặc biệt là Ia tanut pabaiy (nước lèo thịt dê).

Biết người Chăm có tục ngữ: “Ia tanut palei Padra, Ia bai nhjơm bwa palei Hamu Tanran” (Nước lèo làng Như Ngọc, canh rau môn làng Hữu Đức), mùa hè vừa qua tôi có đưa hai sinh viên Nhật về làng Như Ngọc (làng Chăm Bà-la-môn). Ở đây dường như do nguồn nước và do cách pha chế mẹ truyền con nối nữa, nên món nước lèo có mùi vị đặc biệt.

Tiếc là đây không phải mùa cúng (cuối năm), nên khách mất dịp thưởng thức đặc sản Chăm. Tìm đến các tay đầu bếp sành sỏi trong làng như cô Thiên Thị Nai, Quảng Thị Toán… thì các cô cũng bảo: phải đến sau lễ Rija Nưgar cháu à.

Chúng tôi đến làng Phước Nhơn (làng Chăm Bà-ni), món Ia tanut pabaiy được truyền tụng trong dân gian đến thành đặc sản vùng miền. Gia đình Chăm nào cũng có thể làm được món ăn khoái khẩu này. Nhưng người làng nói, bà Thị Dảnh được xem là cao thủ.

Để làm Ia tanut pabaiy, bà dùng nước lèo thịt dê luộc, tùy lượng khách mà lấy nhiều hay ít; vài trái cà chua, gạo rang, lá me non cùng gia vị gồm muối, ớt, một ít mắm nêm với bột ngọt.

Cách chế biến Ia tanut pabaiy khá đơn giản - bà vừa làm vừa giảng giải. Nước súp lấy từ nước thịt luộc được bắc lên nồi để sôi; sau đó cho vào nồi gạo rang đã giã thành bột khuấy đều độ dăm phút. Ở đây, khác với cách nấu nước lèo gà hay trâu, người ta thường bỏ nguyên hạt gạo để nấu chung, còn ở món Ia tanut pabaiy thì những hạt gạo sẽ được rang và giã thành bột (tiếng Chăm là apriơng) để nấu. Tiếp đến cho vào nồi cà chua cắt thái sẵn. Khi tất cả vừa đủ chín, người ta nêm gia vị: ớt, hành, muối và một ít mắm nêm. Cuối cùng, sau khi bắc nồi xuống thì cho số lá me non băm nhỏ.

Người Chăm ở Bình Thuận và Ninh Thuận thường ăn kèm Ia tanut pabaiy với loại rau quen thuộc như thân cây chuối non thái mỏng, các loại rau rừng như đọt lim, đọt dừng, rau lá lốt trộn lại với nhau là loại rau dùng ăn kèm với nước lèo, rất thích hợp.

Trong các cuộc lễ của đồng bào Chăm ở  Ninh Thuận và Bình Thuận không thể thiếu Ia tanut pabaiy, bởi đây là những món ngon chế biến từ thịt con vật được hiến tế lên thần Yang. Xưa, chỉ trong các cuộc lễ bái, người Chăm mới giết dê cúng tế thần. Ở đó có hai món chính: thịt luộc và nước lèo thịt dê. Sau này, khi không phải kiêng kỵ nữa, người dân vẫn có thể dùng thịt dê đãi khách.

Để tránh điều tiếng không tốt, dê thường được mổ ngoài làng mang vào. Và dĩ nhiên ở đó, không thể không có Ia tanut pabaiy. Món ăn đặc trưng này của dân tộc chưa đi vào thị trường, chỉ khi nào du khách ghé thăm làng Chăm, mới có thể thưởng thức nó.

Du lịch, GO! - Theo Kiều Mai Ly (Bình Thuận Online), ảnh internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống