Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Saturday, 30 March 2013

(Tiếp theo) Đồi Bằng Lăng là một khu vực bằng phẳng nằm ở khoảng 1/5 độ cao so với đỉnh. Con đường ngoằn ngoèo lên đồi được trải nhựa, xe gắn máy và xe ô tô có thể chạy lên đến đây không quá khó khăn.

< Đường lên đồi Bằng Lăng. Nếu tính từ Cáp treo Bà Rá, theo đường Hồ Xuân Hương đến đây sẽ gặp 3 nhánh rẽ: nhánh giữa chình là đường lên đồi Bằng Lăng, 2 ngõ còn lại chạy vòng núi.

Trên đồi Bằng Lăng có nhà bia tưởng niệm ghi nhớ công lao của các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh qua 2 thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ...

< Đường lên đồi Bằng Lăng quanh co như những con đèo bọn mình thường đi. Tuy nhiên dốc không cao, cua cũng không quá gắt.

... Năm 1925, thực dân Pháp cho xây tại chân núi một nhà tù lớn để giam cầm bọn trộm cướp, chính trị phạm, những người bị tình nghi là cộng sản nhưng không thành án...

< Hết con đường lên đồi thì gặp một khoảng sân rộng, bằng phẳng. Ngay công có bảng Di tích núi Bà Rá.

... Năm 1941, họ xây dựng thêm khu C để giam cầm những tù chính trị. Bọn cai tù dùng nhiều thủ đoạn dã man để tra tấn tù nhân nhưng với tinh thần kiên cường bất khuất, các chiến sĩ cộng sản đã biến nhà tù này thành nơi đấu tranh.

< Phía đối diện là một công trường đang xây dựng, nghe nói là đài phát sóng gì đó.

Trong chiến tranh chống Mỹ, quân đội Mỹ đã xây dựng trên đỉnh Bà Rá căn cứ quân sự rất hiện đại có cả sân bay trực thăng mà dấu tích bây giờ vẫn còn. Sân bay chủ yếu để kiểm soát toàn bộ vùng Miền Đông Nam Bộ...

< Những bậc thang dẫn lên đền thờ Liệt sĩ.

< Phía trên có bàn thờ như thế này đây.

... Vậy nhưng quân ta vẫn bí mật xây dựng những cứ điểm xung quanh núi để đánh phá địch liên tục gây nhiều tổn thất nặng nề.
Những chiến công của Bà Rá cũng góp phần trong công cuộc Giải phóng Phước Long thắng lợi vẻ vang ngày 6 tháng 1 năm 1975.

< Từ trên đây, nhìn xuống khoảng sân phía dưới với cột cờ là trung tâm.

Sau 75, tại đây có khoảng sân rộng và một trạm kiểm lâm, những bậc thang lên đỉnh núi cũng có nhưng đường đi hiểm trở (sau này được sửa chữa lại).

< Bên phải khoảng sân là nơi dâng hương Hồ Chủ Tịch.

Hiện tại, người ta đang xây dựng một tòa nhà gì đó khá lớn. Đứng lưng chừng núi ở đồi, du khách có thể ngắm nhìn thị trấn Thác Mơ xinh đẹp  mình dưới những rặng cây xanh, xa xa hồ Thác Mơ lãng đãng trong sương mỏng.

< Len theo bên phải căn nhà đang xây, sẽ thấy đường bộ dẫn lên đỉnh núi Bà Rá.

Ngày Thương binh liệt sĩ 25/7 hàng năm, thị xã Phước Long thường tổ chức lễ dâng hương tại đền thờ tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ và đồng bào tử nạn tại đồi bằng lăng.

< Những bậc đá lúc thoải, lúc gắt - lúc rẽ phải, lúc quẹo trái. Xem ra dễ đi nhưng phải phải bước lên cao đến 1.767 bậc lận đó nha!

Từ đồi Bằng Lăng, có một lối đi được kiến tạo bằng 1.767 bậc tam cấp bằng đá để lên đến đỉnh núi cao 723m so với mực nước biển.

< Bảng cấm săn bắt thú rừng có vẽ con nai, vậy nhưng chắc hổng còn nai.

Thông thường, du khách sẽ chia cuộc hành trình thành hai đoạn: Từ chân núi lên đồi Bằng Lăng và từ đồi Bằng Lăng vượt dốc len đỉnh núi.

< Mình tròn mắt khi nghe anh bí thư chi đoàn này nói anh hôm nay anh phải lên đến 5 lần!

1.767 bậc thang nghe phát... ớn nhưng theo nhiều anh trong chi đoàn thanh niên đang tham quan tại đây, trong ngày đó đã có người đi bộ lên đến lần thứ... 5 trong ngày, chỉ do tại công việc mà thôi.

< Nhóm đoàn viên thanh niên vừa trên núi xuống.

Và nếu du khách chịu thua con đường lên núi khó nhọc ni thì có thể lên đỉnh bằng cáp treo, chỉ mất 15 phút thôi với giá vé là 50k/chặng, tức là bạn có thể lên bằng cáp - xuống bằng đường bộ - vậy là chỉ tốn nửa tiền.

< 3h30, bọn mình rời đồi Bằng Lăng, chạy xe xuống phía dưới trong ánh nắng chiều vàng hoe.

Cáp treo Bà Rá, và đỉnh núi: mình sẽ tường thuật lại rõ trong bài sau.

< Mình chụp ngọn núi Bà Rá từ ngã 4 chạy lên, bà xã thì chụp núi và cả mình. Vị trí nơi này tại đây.

< Còn khá sớm nên bọn này rẽ trái, chạy theo con đường nhỏ vòng quanh núi (đường này xe 4 bánh chạy ok).

< Hai đứa bé ngồi chơi trước nhà, đứa nhỏ téo tròn ủm, trần truồng, chỉ quấn quanh bụng chiếc khăn trông như cái khố của sumo. Nửa kia chia phần kẹo cho hai đứa, mỗi đứa một nắm to.

< Đường vòng vo, hai bên bạt ngàn toàn là điều với điều. Đến Phước Long vào mùa điều chín, bạn sẽ có dịp ngửi cái hương vị kỳ lạ này.

< Đong đưa bóng cỏ lau ven con đường vắng, hiếm thấy bóng người. Trên con đường có lối vào KDL Thác Mơ nhưng mùa này kiệt, không có nước.

< Có đoạn thẳng, có đoạn cong, lúc lên, khi thì lại xuống dốc. 

Chút thông tin về Thác Mơ:

Thác Mơ nằm giữa khu bảo tồn thiên nhiên Bà Rá. Lối vào thác là con đường rải nhựa ngoằn ngoèo chạy dưới tán rừng nguyên sinh. Từ hồ nước trong xanh vời vợi, từng ngọn thác mềm mại, trắng xoá đổ xuống chân núi. Dưới chân núi là hồ nước trong veo, lung linh tựa bức tranh thiên nhiên ba chiều. Ngồi trên chiếc xuồng nhỏ, du khách sẽ được thoả sức ngắm nhìn khung cảnh hùng vĩ, hoang sơ của núi non, mây trời. Nhìn từ dưới lên, thác nước như một chiếc thang mây trắng xoá bồng bềnh.

< Đường quanh núi ni cũng có nhánh rẽ đi Phước Tín, Phước Sơn và đập Phước Lộc.

Thác thứ nhất nước đổ dữ dội, tung bọt trắng xoá. Thác thứ hai êm dịu hơn, nước chảy thành chùm len qua từng kẽ đá. Dưới chân thác là một hồ nước nhỏ trong vắt. Nếu du khách thích mạo hiểm có thể lặn ngụp dưới đáy hồ để chiêm ngưỡng những hang động kỳ ảo với những nhũ đá đủ các hình thù...
< Có một điều mình quên đề cập đến khi vào địa phận Phước Long: 'mùi' thành phố quen rồi, mùi bụi đường cũng thế. Vậy nhưng khi đến vùng ven thị xã Phước Long thì bạn sẽ ngửi thấy một mùi thoang thoảng khắp nơi.
Không hẳn là thơm nhưng cũng chả thủm...
Hồi sau mình mới rõ đó là mùi trái đào lộn hột (điều) chín rộ.

< Phía xa xa đã thấy thấp thoáng nhà, hồi nữa sẽ gặp nhánh rẽ ra TL741 để vào trung tâm thị xã. - bọn mình vẫn chạy thẳng...

Thác thứ ba là ngọn thác cao nhất trong quần thể thác Mơ. Nước từ trên cao dội xuống như một máng nước khổng lồ. Hơi nước và hơi đá toát ra vẻ lành lạnh sẽ xua tan mệt mỏi, tạo hưng phấn cho du khách tiếp tục chinh phục đỉnh núi...
Vậy nhưng mùa khô năm hạn: thác Mơ sẽ trở thành giấc mơ thật!

< Thêm một đoạn dài, đột nhiên đường cáp treo núi Bà Rá xuất hiện ngay trên đầu - a, sắp giáp vòng núi rồi. Vị trí nơi này tại đây.

< Vậy là dừng lại nghỉ chân, ngắm cảnh vật. Chiều thứ 7 vắng, cáp treo không thấy chạy.

< Đường cũng vắng, chỉ có những cây điều là xum xuê...

< ... chín mùi rồi rụng đầy đất. Sao người ta không thu hoạch nhỉ, điều là mặt hàng xuất khẩu giá trị khá cao...

< Lại có những nhúm trái đã được ngắt hạt rồi bỏ trên đất. Có lẽ lâu lâu người ta đi thu hoạch một lần bằng cách lấy hạt trên trái rụng, trái bỏ lại làm phân bón cây - không phải leo, khỏi phải hái, ít tốn tiền nhân công.

Còn tiếp
Phần 1 - Phần 2 - Phần 3 - Phần 4 - Phần 5 - Phần 6 - Phần 7

Điền Gia Dũng

Du lịch, GO!

Friday, 29 March 2013

Ngôi chùa Hội Khánh tọa lạc dưới chân đồi, cách trung tâm thị xã Thủ Dầu Một 500m về hướng Đông, số 35 đường Bác sĩ Yersin, phường Phú Cường, Thị xã Thủ Dầu Một.

Chùa xây dựng từ thế kỷ XVIII (1741), năm 1861 chùa đã bị giặc Pháp thiêu hủy. Đến năm 1868, chùa được xây dựng lại ở vị trí hiện nay, cảnh trí u nhã rợp bóng cây xanh và dưới tàn bốn cây dầu cổ thụ vươn cao đã trên hàng trăm tuổi. Ngôi chùa là một công trình kiến trúc tôn giáo, đồng thời cũng là một công trình kiến trúc gỗ lớn nhất tỉnh, với diện tích xây dựng 1.211m².
Với chiều dày về lịch sử, tôn giáo, kiến trúc mỹ thuật và truyền thống yêu nước gắn bó giữa đạo Pháp và dân tộc, chùa được công nhận di tích lịch sử – văn hóa cấp Quốc gia ngày 07/01/1993.

Di tích trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1891, 1906, 1917, 1991,1999. Năm 2004 trùng tu cổng chính. Vườn chùa có 9 ngôi bảo tháp, có giá trị mỹ thuật cao  được trùng tu, tôn tạo vào năm 2006.

Năm 2007 chùa xây dựng thêm ngôi tháp 7 tầng cao 27 mét và tái tạo lại Phật tích “ Tứ động tâm”, gồm có: Vườn Lâm Tì Ni(nơi Phật ra đời), Bồ Đề Đại Tràng(nơi Phật thành đạo), Vườn Lộc Uyển(nơi Phật thuyết đầu tiên), Ta La Song Thọ(đức Phật nhập niết bàn) có ý nghĩa sâu sắc về đạo pháp.

Tuy đã được sửa chữa, trùng tu nhiều lần nhưng về cơ bản đây là ngôi chùa hiếm hoi vẫn còn giữ được phần lớn kiến trúc ban đầu. Không chỉ nổi tiếng về niên đại thành lập, giá trị kiến trúc nghệ thuật.

Cho đến nay chùa còn lưu giữ được nhiều cổ vật có giá trị cao về lịch sử văn hoá, tôn giáo, mỹ thuật, kể cả nhiều tự khí mộc bản (khắc in), kinh sách, liển đối, tài liệu, văn thơ, địa lý, y học cổ. Chùa Hội Khánh còn là một công trình điêu khắc chạm trổ tinh vi, khéo léo từng bộ phận, chi tiết trong nội thất như cột kèo, đầu dư, cửu võng, câu đối,...

Nét nỗi bật của ngôi cổ tự này là giá trị phong phú về mặt lịch sử văn hoá, nghệ thuật kiến trúc, đặc biệt phần lớn những di tích, cổ vật hàng mấy trăm năm được bảo tồn lưu giữ cho đến nay. Hội Khánh còn được xem là ngôi chùa tiêu biểu cho đặc điểm chung của các ngôi chùa cổ Bình Dương: “ Trong tỉnh có nhịều chùa cổ, đặc biệt ở đây là xứ sở của nghệ thuật, nên các chùa này đều xây dựng theo quy mô đẹp, trong chùa có nhiều tác phẩm trang trí, nhất là hệ thống tượng thờ đạt tiêu chuẩn, không nơi nào có được”.

Về cấu trúc chùa gồm bốn phần chính: Tiền điện – chánh điện; giảng đường kiến trúc này có 92 cột gỗ quý), Đông lang và Tây lang chùa bố trí theo kiểu “sắp đôi” nối liền nhau với kiến trúc “trùng thềm, trùng lương”. Đây là biến tấu đặc biệt trong kiến trúc theo truyền thống chùa cổ xứ Nam Kỳ. Chánh điện với kèo cột, vách gỗ và ba bộ cửa bức màn, còn có gần 100 tượng gỗ, các vị La Hán và thập điện Minh Vương dáng vẻ khác nhau được tạo bằng gỗ mít sơn son thép vàng.

Đặc biệt có hai bức phù điêu chạm hình 18 vị La Hán và các vị bồ tát, tạo nên một công trình điêu khắc tuyệt mỹ, có giá trị nghệ thuật cao mang đặc trưng của phong cách điêu khắc gỗ Bình Dương xưa.

Đây là công trình mang dấu ấn những bàn tay tài nghệ độc đáo của lớp thợ xứ Thủ (TDM) ở cuối TK XIX (trong đó phải kể đến các thợ như thợ phèn, đường, Trương Văn Cang, Nguyện Văn Ba, Nguyễn Văn Xù, Sáu Nhồng, Chính Trí…).

Về phần liễn đối, thơ văn còn lưu giữ phong phú, giá trị khó có ngôi chùa nào sánh kịp. Nơi chánh điện có những câu liễn đối tiêu biểu cho đạo vị thiền học được nhiều người nhắc đến:
“Nhược thực nhược hư trúc ảnh tảo giai trần bất động
thị không thị sắc nguyệt xuyên hải để thuỷ vô ngân”
(Như thực như hư, bóng trúc quét thềm, bụi trần chẳng động.
Là không là sắc, ánh trăng xoáy biển, nước biển không nhồi)

Nói riêng về cảnh chùa ở đây cũng như nói chung về bốn thiền môn, ở ngoài tiền điện còn có ba bài thơ cảm tác “Hội Khánh tự hữu cảm thi” (bài thơ cảm tác về chùa Hội Khánh) không chỉ có giá trị cao nói về sự tĩnh tâm, thanh tịnh của nhà Phật mà còn mang đậm phong cách cao nhã trong văn chương. Dưới đây xin trích lại phần diễn ý ra quốc ngữ đoạn cuối bài thơ: … giữa đám cỏ xanh dựng lên chùa như tại một cảnh tiên. Lòng vui rảo bước qua khu rừng khoe màu sắc. Đêm ở lại chùa cùng các tăng đàm đạo. Nơi Phật đường yên vắng ngồi tĩnh dưỡng. Im lặng tịnh tâm quay lại với chính mình. Bỗng hương huệ khó đưa nhiều nhà sư đến.

Ngoài ra, nhiều người cũng nhắc đến câu đối của cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc còn lưu ở chùa Hội Khánh, với ý nghĩa ngôn từ hàm súc của thiền học: “Đại đạo quảng khai thố giác khuê đàm để nguyệt. Thiền môn giáo dưỡng, qui mao thằn thụ đầu phong” (Tạm dịch: mở rộng đạo lớn như sừng thỏ như mò trăng đáy nước. Nuôi dưỡng mái chùa như lông rùa như cột gió đầu cây).

Về phần nghệ thuật trang trí nội thất, tranh tượng tự khí thờ phượng qua các công trình điêu khắc, chạm trổ qua các hoa văn hoạ tiết các bộ bao lam, tứ linh, cửu long, dây nho, lá lấp, hoa phù dung… đều rất công phu, sắc sảo… đặc biệt phải kể đến bộ bao lam “thập bát La Hán” (tạo tác 1921), bức phù điêu “tứ thời” ốp vào hai cột trước chánh điện; các bàn thờ chạm trổ tinh vi hoàn thành vào năm At Sửu (1925).
Nhà chùa còn giữ được bộ mộc bản in kinh cách đây trên 120 năm; vào năm At Dậu (1885) hoà thượng ấn long cho khắc bộ tam bản (mộc bản) và đây có thể là bộ mộc bản sớm nhất ở Thủ Dầu Một -Bình Dương.

Hiện chùa lưu giữ các bộ kinh A Di đà, Hồng danh, Vu lan, Bát dương, Phổ môn vốn đã được ấn tống cho các chùa trong tỉnh và đây cũng là các bộ kinh sách được khắc in quá sớm ở Nam Bộ. Sau đó, hoà thượng Từ Văn tiếp tục thực hiện một số bộ mộc bản in kinh 1930.
Đại hồng chung của chùa được đúc vào năm Quí Mùi (1883) do Bổn đạo Dương Văn Lúa hiến cúng. Điều đó cho thấy  đạo phật đã phát triển khá sớm và khá vững mạnh tại địa phương này.

Từ khi thành lập đến nay chùa đã trải qua 10 vị trụ trì (9 vị đã viên tịch) trong đó không ít vị cao tăng, đạo đức tài năng nổi danh cả Nam Bộ. Ngoài đại ngạn thiền sư người khai sơn sáng lập chùa, có công hoằng pháp khá sớm ở địa phương này, còn phải kể đến hoà thượng Từ Văn (1877 -1931)- Ngài đã đào tạo nhiều đệ tử tài đức có công đức với đạo pháp cũng như với dân tộc. Đặc biệt không thể không nhắc đến nhà sư yêu nước hoà thượng Từ Tâm đã bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo 1940. Hoà thượng Từ Văn có nhiều công đức và uy tín xếp hàng đầu các danh tăng ở Nam Bộ, được đương thời phong tặng cho Ngài là hoà thượng cả.

Năm 1920 người Pháp đã mời ngài qua tây chủ lễ cầu siêu cho binh sĩ người Việt chết trận cho nước họ trong thế chiến thứ nhất (1914 -1918). Cũng có tư liệu cho rằng Ngài được mời tham dự cuộc đấu xảo của các xứ thuộc địa Pháp tại Mairseille cùng với một số mô hình kiến trúc phiên bản đình chùa, ảnh tượng điêu khắc (đặc biệt là bộ tượng thạp bát La Hán) của tỉnh Thủ Dầu Một được tuyển chọn.

Trong những năm 1923 -1926, chùa Hội Khánh Thủ Dầu Một còn là nơi ẩn náu qui tụ các nhân sĩ: nhà nho, nhà sư yêu nước cùng lập ra “Hội danh dự” với sự tham gia của chính hoà thượng Từ Văn, Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (Thân phụ của bác Hồ), cụ Tú Cúc… mục đích của Hội là cổ vũ cho lối sống đề cao đạo đức, coi trọng danh dự và lòng yêu quý đồng bào đất nước.

Dù Hội chỉ hoạt động trong một thời gian ngắn nhưng đã gây dược ảnh hưởng đáng kể như nhận định của một nhà nghiên cứu: “ Những lời nói và việc làm của các cụ (trong hội danh dự – NHH) trực tiếp hay gián tiếp đã để lại cho dân chúng địa phương một ấn tượng tốt đẹp, ảnh hưởng sâu sắc lòng yêu nước của họ. Sau này chùa Hội Khánh thành một nơi mà nhiều lớp học sinh, thanh niên đến trọ học. Nhiều người trong số họ đã tham gia các phong trào yêu nước”.

Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, chùa Hội Khánh là trụ sở Hội Phật giáo cứu quốc tỉnh Thủ Dầu Một, đã góp nhiều công sức tâm huyết kể cả xương máu của các nhà tu, Phật tử nhà chùa. Trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân địa phương từ 1953, chùa là trụ sợ Phật giáo yêu nước tỉnh Bình Dương và đến 1983 chùa Hội Khánh là trụ sở của tỉnh Hội Phật giáo Bình Dương. Năm 1995, nơi đây Tỉnh hội xây dựng Trường cơ bản Phật học tỉnh Sông Bé (Bình Dương). Hiện thượng toạ Thích Huệ Thông trụ trì chùa Hội Khánh (từ 1988) và là phó ban thường trực tỉnh Hội Pháp giáo Bình Dương.

Năm 2008, Phật đài quy mô lớn, cao 22m được xây dựng ở khu đất phía trước chùa. Tầng trệt là dãy nhà chiều dài 64m, chiều ngang 23m dùng làm Trường Phật học, Thư viện … Tầng trên tôn trí đại tượng đức Bổn sư Thích Ca nhập Niết bàn cao 12m, dài 52m. Đây là một công trình mỹ thuật đáng tự hào của Phật giáo Bình Dương, được khánh thành trọng thể vào ngày Rằm tháng Hai năm Canh Dần (30-3-2010) mừng 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội.

Du lịch, GO! - Theo Sở VHTTDL tỉnh Bình Dương, ảnh internet
đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) ngày nay còn lưu lại câu chuyện về giặc Tàu Ô, gắn liền với dinh Bà Roi (ở đảo Lớn) và hang Kẻ Cướp (ở đảo Bé).

Chuyện về hang Kẻ Cướp

Ông Nguyễn Văn Thịnh, 78 tuổi, trưởng thôn Bắc (tức đảo Bé, xã An Vĩnh) cho biết: “Hang Kẻ Cướp chính là hang Chàng Thiếp mà lâu nay người dân trên đảo vẫn gọi. Cái tên Chàng Thiếp xuất phát từ câu chuyện trước kia có một đôi nam nữ không rõ ở đâu bị trôi giạt vào đây, thấy có cái hang nên chui vào ở. Sống được một thời gian, thì giặc Tàu Ô xuất hiện, bọn chúng thấy cái hang tốt cho việc ẩn náu nên giết hai vợ chồng để chiếm lấy, từ đấy cái hang mang tên Kẻ Cướp”.

Ông Thịnh ra đảo Bé ở vào năm 1960, lúc này hang Kẻ Cướp còn rất nhiều đồ cổ, gốm sứ, thậm chí vàng bạc. Có một điều lạ ở đây là, hòn đá nằm chếch về phía trước miệng hang cứ lớn dần.

Theo nhiều người, trước kia hòn đá rất nhỏ, mọi người vào ra hang bình thường; nhưng bây giờ nó to ra, ăn liền vào miệng hang, nên cửa hang không còn rộng. “Hồi đó cái hang rộng lớn lắm, nghe đâu chứa vài trăm người, vì vậy mà bọn Tàu Ô mới chọn làm sào huyệt. Tuy nhiên, kể từ khi hòn đá lớn ra, cộng với sóng biển đẩy cát, sạn vào nên bây giờ hang không còn rộng và sâu nữa”, ông Thịnh cho biết thêm.

Và dinh Bà Roi

Liên quan đến giặc Tàu Ô còn có dinh Bà Roi. Trước đây, vùng biển Lý Sơn tấp nập tàu thuyền qua lại nên cướp biển xuất hiện, người dân gọi là giặc Tàu Ô. Khi chiếm được hang Chàng Thiếp làm sào huyệt, giặc Tàu Ô mới biết ở đây không có nước ngọt. Do đó, chúng thường xuyên bén mảng qua đảo Lớn để cướp nước ngọt cũng như lương thực và phụ nữ.

Thăm mộ Bà Phạm Tiên Đièu trong khu Đền Bà Roi.
Một lần vào tháng 5.1645, bọn cướp mò qua bắt một cô gái 16 tuổi tên Phạm Thị Lôi. Sau khi cố gắng la lớn cho mọi người biết có cướp đến, nàng vùng vẫy, thoát khỏi chúng rồi nhảy xuống vũng Thầy Tu tự vẫn.
Nàng trầm mình với tư thế tựa ngồi thiền, mặc sóng cao, gió lớn. Xác của nàng được dân làng vớt về chôn cất và lập đền thờ, gọi là dinh Bà Roi.

Hiện dinh Bà Roi vẫn còn nhưng hư hại nhiều theo sự phá hủy của thời gian. Còn vùng nước nơi bà nhảy xuống bây giờ là nơi tổ chức đua thuyền truyền thống hằng năm của người dân trên đảo Lý Sơn.

Du lịch, GO! - Theo Xuân Khánh (iHay.Thanhnien), internet
Thiên nhiên Bình Ba đẹp và đầy hoang sơ với những bãi cát trắng trải dài, mịn màng như chưa từng có dấu chân người, những quần thể đá granit do sự xâm thực của gió và nước biển tạo nên nhiều hình thù chồng chất kỳ thú.

Bình Ba là một đảo quân sự thuộc xã Cam Bình, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa. Từ cảng Đá Bạc (Cam Ranh), bạn đi thuyền ra đảo mất khoảng hơn một giờ đồng hồ. Nếu vùng vịnh Cam Ranh như một hình chữ “U” thì Bình Ba là một dấu chấm nằm ở hai đầu chữ “U”, tạo thành hai cửa biển: cửa biển lớn và cửa biển nhỏ. Bình Ba che chắn phong ba bão táp cho vùng vịnh Cam Ranh, dang rộng vòng tay bảo vệ tàu thuyền của các ngư dân về trú ngụ khi gặp bão ngoài khơi. Chính vì lý do đó mà người dân nơi đây gọi tên đảo là Bình Ba.

Với diện tích hơn 300 ha, khoảng trên dưới 1.000 hộ dân, đảo Bình Ba là nơi tập trung ngành nghề đánh bắt và nuôi trồng hải sản, đặc biệt là tôm hùm. Người dân ở đây rất mộc mạc, giản dị và hiếu khách, luôn chào đón mọi người đến với đảo.

Bình Ba còn khá mới đối với dân du lịch theo tour vì không có bất kỳ khách sạn hay dịch vụ cho du lịch. Nhưng đối với dân phượt thì đây là một địa điểm vô cùng hấp dẫn vì vẻ đẹp hoang sơ, chưa chịu nhiều tác động của con người. Một cái thú khi du lịch bụi đến đây là được ngủ lại nhà dân, hòa mình chung với nhịp sống của những người dân trên đảo.

Trên đảo có ba bãi biển đẹp nhất là: bãi Nồm, bãi Chướng và bãi Sa Huỳnh. Bãi Nồm (nơi mặt trời lặn) cát trắng, sạch, là nơi dân ở đây tắm và tập thể dục hằng ngày. Từ cổng vào làng Bình Ba, đi bộ thẳng xuyên qua đảo chừng 5 phút là đã đến được bãi Nồm. Bãi Chướng (nơi mặt trời mọc) có nhiều đá, nước trong xanh. Để đến được bãi Chướng, cần đi thuyền khoảng chừng 30 phút qua cửa biển lớn.

Bãi Sa Huỳnh là bãi ít có người đặt chân đến nhất, vì vùng biển nơi đây sóng lớn, chỉ có thể đi thuyền ra bãi này vào tháng 3 dương lịch. Vào mùa này, biển bãi Sa Huỳnh phẳng lặng không chút gió.

Để đến bãi Sa Huỳnh đi thuyền cũng chừng 40 phút là đến cửa biển nhỏ. Vì có rất ít người được đặt chân đến bãi Sa Huỳnh nên đây thực sự là một thiên đường hoang sơ với bãi cát trắng mịn trải dài tít tắp, làn nước xanh trong mát lạnh, những người từng có dịp đến đây đều ngỡ ngàng trước vẻ đẹp mà tạo hóa đã ban tặng cho vùng biển này.

Ngoài những bãi biển đẹp, đảo Bình Ba còn là một địa điểm thu hút những người mê lặn biển. Chỉ cần một cặp chân vịt, mắt kính và ống thở, bạn có thể hóa thân thành những nàng tiên cá bên những rặng san hô phong phú đầy màu sắc, ngắm nhìn những đàn cá đủ chủng loại sặc sỡ tung tăng bơi lội bên cạnh các con sao biển, nhum và cầu gai.

Một thú vui khác khi đến Bình Ba là đi thăm bè tôm hùm. Nuôi tôm hùm là ngành nghề chính của ngư dân đảo. Ăn trưa trên bè tôm hùm là một trải nghiệm thú vị. Ngồi giữa bè trên biển lộng gió, thưởng thức gỏi cá mai và món cá bớp nhúng giấm pha chút xá xị thơm lừng cuốn với rau và bánh tráng, hẳn là thứ trải nghiệm không bao giờ bạn có thể quên. Nếu chịu chơi hơn, bạn có thể thử ăn tôm hùm bắt tại bè. Chưa kể, bạn sẽ được thử thách tính mạo hiểm của mình khi đi qua lại những thanh gỗ hẹp bắc ngang dọc bè, ngắm cá bớp nuôi trong những chiếc lồng lớn, quan sát sinh hoạt của ngư dân thường ngày trên bè, hay xem người dân lặn xuống lồng bắt tôm hùm hoặc bắn cá nóc bằng súng bắn tên tự chế.

Một điều không thể bỏ qua nữa ở Bình Ba là ăn quà vặt, cực ngon và rẻ. Bình Ba có chợ sáng và chợ chiều. Chợ sáng họp tầm từ 6 giờ đến khoảng hơn 7 giờ, tập trung các món ăn sáng từ cháo lòng, bún chả cá, bánh bèo, bánh xèo cho đến sữa đậu nành, chè đậu ván, sương sâm, bánh tráng nướng, bánh quai vạt rắc dừa béo ngậy... với giá cả chỉ từ 3.000 - 10.000 đồng cho mỗi món. Chợ chiều họp tầm 4 - 5 giờ với những món ăn vặt như hột vịt lộn, nem nướng, bún vịt, bún thịt nướng, cuốn thập cẩm, cơm rượu...

Trút bỏ những bộn bề lo toan của cuộc sống thành phố, xách ba lô lên xe về với đảo Bình Ba trong một dịp cuối tuần, tận hưởng biển trời bao la, trải nghiệm những điều thú vị, thưởng thức những món ăn ngon lạ thì những mệt mỏi đời thường dường như tan biến hết.

Một lần đến đảo Bình Ba
Bãi biển Bình Ba: Sức hút hoang dã

Du lịch, GO! - Theo Tú Nghi (iHay.Thanhnien), internet
Bí non làm gỏi phải là thứ quả "bỏ đi", bị sâu, nám cuống, sượng hoàn toàn. Mùa bí đỏ thường vào tháng giêng. Đó là khi nhìn ra trảng cát sau nhà, thấy màu xanh của bí phủ bạt ngàn trên những ụ cát nối tiếp nhau, nổi bật lên trên đó là những bông hoa vàng vàng nghệ vươn thẳng, thoáng lấp ló mấy quả bí non xanh đậm, bóng lưỡng nằm xoãi.

Bí đỏ dễ trồng, chỉ chừng hơn tháng, tháng rưỡi sau khi ươm dây là có thể bắt đầu thu hoạch ngọn non. Những ngày này, dễ dàng bắt gặp những rổ bông bí vàng mượt hấp dẫn và những chồi ngọn non ướt rượt sương theo chân người nông dân ra chợ.

Chỉ mới thoáng nhìn thôi, miệng lưỡi đã thấy thòm thèm đủ thứ món ngon từ loại nguyên liệu dân dã này: Bông bí, ngọn bí luộc chấm mắm cái cá cơm ăn vừa hao cơm vừa mát ruột; ngọn bí xào tỏi vừa đậm vừa thơm làm món "đưa cay" đơn giản mà thú vị. Cầu kì hơn nữa thì lấy bông bí nhồi thịt hấp cách thủy, ngọn bí luộc vắt ráo nước để phối với tôm đất và thịt ba chỉ thành món gỏi hạng sang.

Tháng giêng hay sa mưa bất chợt cho ta thêm một món ngon nữa từ bí: Gỏi bí non. Đây là loại nguyên liệu khá "kỳ cục", bởi cứ chọn theo nguyên tắc "da láng, không bị sâu đục, hư thối" như những loại thực phẩm khác là... thua. Bí non ăn được phải là thứ quả "bỏ đi", bị sâu, bị nám cuống, bị ảnh hưởng thời tiết không thể lớn nữa.. Phải là như thế, bí non mới sượng, giòn, khi luộc, xào, nấu canh hay chế biến món gì  không bị mềm oặt, rã mịn ra như bí "xịn".

Phàm đã là thứ nguyên liệu dân dã thì chế biến chỉ có cách làm thiệt đơn giản như ông bà mình trước nay vẫn làm, vẫn nấu, cầu kì quá lại hóa ra "lai" hương vị, mất ngon!

Bí non hái về rửa sạch xong mới đem gọt vỏ, xắt lát mỏng vừa ăn đem luộc vừa chín tới với chút muối hầm (cũng có người cầu kì, không muốn mấy chục giây lát bí bị dằm trong nước sôi bị ra hết chất ngọt thì đem hấp hơi nước). Vớt ra rổ, dùng đũa xới nhẹ cho bí nhanh nguội hoặc thả vào vài cục nước đá cho bí giòn.

Trong lúc ấy, người nội trợ nhanh tay chà vỏ dăm củ nén, lột thêm mấy tép tỏi rồi giã dập. Cho vào chảo nóng vài muỗng dầu phộng, chờ cho dầu vừa chín thì cho tỏi nén vào phi. Nhớ cái lúc mùi thơm quyến rũ ấy bay lên phưng phức thì lẹ tay bắc xuống, bởi để quá lửa tí xíu là nén đã bị cháy khét rồi.

Bí nguội đem vắt thật ráo nước, sau đó đánh tơi và trộn với dầu phụng đã khử nén thơm lừng kia, nêm vào vài muỗng nước mắm tỏi ớt chua ngọt. Cuối cùng là cho ra đĩa, rắc đậu phộng giã dập và rau thơm xắt nhỏ lên trên là có thể thưởng thức. Lát bí vàng ươm, nhai vào cảm giác ngay được cái giòn sừn sựt và vị ngọt đọng lại nơi đầu lưỡi. Hòa quyện vào đó còn có cái beo béo của dầu phụng, bùi bùi của đậu phộng rang và the the của rau thơm, tỏi ớt.

Những khi có khách khứa hay muốn bữa ăn "xôm tụ" hơn, các bà, các cô thường gia giảm thêm ít tôm đất hay thịt ba chỉ. Nhưng thiệt ra, cái vị giòn ngọt mộc mạc dễ chịu kia nếu "ở" một mình thì lại hay hơn nhiều lần, bởi cái lưỡi không bị chất béo của thịt, vị ngọt của tôm "dỗ" mà dành tất cả sự chờ đợi vào miếng ngon dân dã kia,

Mùa bí mới bắt đầu ngoài kia thôi, các bà, các cô chớ chần chừ để lỡ rồi tiếc nuối. Bởi bông bí, ngọn bí, bí non chỉ ngon thực sự trong tháng giêng này, khi nó hội tụ đủ cái thơm, cái mát, cái dịu của đất trời đương xuân, chứ một hai tháng nữa chớm hè nắng gắt thì món ngon đã phai đi ít nhiều. Rau sạch ít phải lo thuốc trừ sâu, kích thích, lại đương đúng vụ cũng là một lý do để những món ngon từ bí góp mặt nhiều hơn trong những bữa cơm gia đình xứ Quảng tháng giêng này.

Du lịch, GO! - Theo Như Huyền (Báo Quảng Nam), internet

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống