Ngôi chùa Hội Khánh tọa lạc dưới chân đồi, cách trung tâm thị xã Thủ Dầu Một 500m về hướng Đông, số 35 đường Bác sĩ Yersin, phường Phú Cường, Thị xã Thủ Dầu Một.
Chùa xây dựng từ thế kỷ XVIII (1741), năm 1861 chùa đã bị giặc Pháp thiêu hủy. Đến năm 1868, chùa được xây dựng lại ở vị trí hiện nay, cảnh trí u nhã rợp bóng cây xanh và dưới tàn bốn cây dầu cổ thụ vươn cao đã trên hàng trăm tuổi. Ngôi chùa là một công trình kiến trúc tôn giáo, đồng thời cũng là một công trình kiến trúc gỗ lớn nhất tỉnh, với diện tích xây dựng 1.211m².
Với chiều dày về lịch sử, tôn giáo, kiến trúc mỹ thuật và truyền thống yêu nước gắn bó giữa đạo Pháp và dân tộc, chùa được công nhận di tích lịch sử – văn hóa cấp Quốc gia ngày 07/01/1993.
Di tích trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1891, 1906, 1917, 1991,1999. Năm 2004 trùng tu cổng chính. Vườn chùa có 9 ngôi bảo tháp, có giá trị mỹ thuật cao được trùng tu, tôn tạo vào năm 2006.
Năm 2007 chùa xây dựng thêm ngôi tháp 7 tầng cao 27 mét và tái tạo lại Phật tích “ Tứ động tâm”, gồm có: Vườn Lâm Tì Ni(nơi Phật ra đời), Bồ Đề Đại Tràng(nơi Phật thành đạo), Vườn Lộc Uyển(nơi Phật thuyết đầu tiên), Ta La Song Thọ(đức Phật nhập niết bàn) có ý nghĩa sâu sắc về đạo pháp.
Tuy đã được sửa chữa, trùng tu nhiều lần nhưng về cơ bản đây là ngôi chùa hiếm hoi vẫn còn giữ được phần lớn kiến trúc ban đầu. Không chỉ nổi tiếng về niên đại thành lập, giá trị kiến trúc nghệ thuật.
Cho đến nay chùa còn lưu giữ được nhiều cổ vật có giá trị cao về lịch sử văn hoá, tôn giáo, mỹ thuật, kể cả nhiều tự khí mộc bản (khắc in), kinh sách, liển đối, tài liệu, văn thơ, địa lý, y học cổ. Chùa Hội Khánh còn là một công trình điêu khắc chạm trổ tinh vi, khéo léo từng bộ phận, chi tiết trong nội thất như cột kèo, đầu dư, cửu võng, câu đối,...
Nét nỗi bật của ngôi cổ tự này là giá trị phong phú về mặt lịch sử văn hoá, nghệ thuật kiến trúc, đặc biệt phần lớn những di tích, cổ vật hàng mấy trăm năm được bảo tồn lưu giữ cho đến nay. Hội Khánh còn được xem là ngôi chùa tiêu biểu cho đặc điểm chung của các ngôi chùa cổ Bình Dương: “ Trong tỉnh có nhịều chùa cổ, đặc biệt ở đây là xứ sở của nghệ thuật, nên các chùa này đều xây dựng theo quy mô đẹp, trong chùa có nhiều tác phẩm trang trí, nhất là hệ thống tượng thờ đạt tiêu chuẩn, không nơi nào có được”.
Về cấu trúc chùa gồm bốn phần chính: Tiền điện – chánh điện; giảng đường kiến trúc này có 92 cột gỗ quý), Đông lang và Tây lang chùa bố trí theo kiểu “sắp đôi” nối liền nhau với kiến trúc “trùng thềm, trùng lương”. Đây là biến tấu đặc biệt trong kiến trúc theo truyền thống chùa cổ xứ Nam Kỳ. Chánh điện với kèo cột, vách gỗ và ba bộ cửa bức màn, còn có gần 100 tượng gỗ, các vị La Hán và thập điện Minh Vương dáng vẻ khác nhau được tạo bằng gỗ mít sơn son thép vàng.
Đặc biệt có hai bức phù điêu chạm hình 18 vị La Hán và các vị bồ tát, tạo nên một công trình điêu khắc tuyệt mỹ, có giá trị nghệ thuật cao mang đặc trưng của phong cách điêu khắc gỗ Bình Dương xưa.
Đây là công trình mang dấu ấn những bàn tay tài nghệ độc đáo của lớp thợ xứ Thủ (TDM) ở cuối TK XIX (trong đó phải kể đến các thợ như thợ phèn, đường, Trương Văn Cang, Nguyện Văn Ba, Nguyễn Văn Xù, Sáu Nhồng, Chính Trí…).
Về phần liễn đối, thơ văn còn lưu giữ phong phú, giá trị khó có ngôi chùa nào sánh kịp. Nơi chánh điện có những câu liễn đối tiêu biểu cho đạo vị thiền học được nhiều người nhắc đến:
“Nhược thực nhược hư trúc ảnh tảo giai trần bất động
thị không thị sắc nguyệt xuyên hải để thuỷ vô ngân”
(Như thực như hư, bóng trúc quét thềm, bụi trần chẳng động.
Là không là sắc, ánh trăng xoáy biển, nước biển không nhồi)
Nói riêng về cảnh chùa ở đây cũng như nói chung về bốn thiền môn, ở ngoài tiền điện còn có ba bài thơ cảm tác “Hội Khánh tự hữu cảm thi” (bài thơ cảm tác về chùa Hội Khánh) không chỉ có giá trị cao nói về sự tĩnh tâm, thanh tịnh của nhà Phật mà còn mang đậm phong cách cao nhã trong văn chương. Dưới đây xin trích lại phần diễn ý ra quốc ngữ đoạn cuối bài thơ: … giữa đám cỏ xanh dựng lên chùa như tại một cảnh tiên. Lòng vui rảo bước qua khu rừng khoe màu sắc. Đêm ở lại chùa cùng các tăng đàm đạo. Nơi Phật đường yên vắng ngồi tĩnh dưỡng. Im lặng tịnh tâm quay lại với chính mình. Bỗng hương huệ khó đưa nhiều nhà sư đến.
Ngoài ra, nhiều người cũng nhắc đến câu đối của cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc còn lưu ở chùa Hội Khánh, với ý nghĩa ngôn từ hàm súc của thiền học: “Đại đạo quảng khai thố giác khuê đàm để nguyệt. Thiền môn giáo dưỡng, qui mao thằn thụ đầu phong” (Tạm dịch: mở rộng đạo lớn như sừng thỏ như mò trăng đáy nước. Nuôi dưỡng mái chùa như lông rùa như cột gió đầu cây).
Về phần nghệ thuật trang trí nội thất, tranh tượng tự khí thờ phượng qua các công trình điêu khắc, chạm trổ qua các hoa văn hoạ tiết các bộ bao lam, tứ linh, cửu long, dây nho, lá lấp, hoa phù dung… đều rất công phu, sắc sảo… đặc biệt phải kể đến bộ bao lam “thập bát La Hán” (tạo tác 1921), bức phù điêu “tứ thời” ốp vào hai cột trước chánh điện; các bàn thờ chạm trổ tinh vi hoàn thành vào năm At Sửu (1925).
Nhà chùa còn giữ được bộ mộc bản in kinh cách đây trên 120 năm; vào năm At Dậu (1885) hoà thượng ấn long cho khắc bộ tam bản (mộc bản) và đây có thể là bộ mộc bản sớm nhất ở Thủ Dầu Một -Bình Dương.
Hiện chùa lưu giữ các bộ kinh A Di đà, Hồng danh, Vu lan, Bát dương, Phổ môn vốn đã được ấn tống cho các chùa trong tỉnh và đây cũng là các bộ kinh sách được khắc in quá sớm ở Nam Bộ. Sau đó, hoà thượng Từ Văn tiếp tục thực hiện một số bộ mộc bản in kinh 1930.
Đại hồng chung của chùa được đúc vào năm Quí Mùi (1883) do Bổn đạo Dương Văn Lúa hiến cúng. Điều đó cho thấy đạo phật đã phát triển khá sớm và khá vững mạnh tại địa phương này.
Từ khi thành lập đến nay chùa đã trải qua 10 vị trụ trì (9 vị đã viên tịch) trong đó không ít vị cao tăng, đạo đức tài năng nổi danh cả Nam Bộ. Ngoài đại ngạn thiền sư người khai sơn sáng lập chùa, có công hoằng pháp khá sớm ở địa phương này, còn phải kể đến hoà thượng Từ Văn (1877 -1931)- Ngài đã đào tạo nhiều đệ tử tài đức có công đức với đạo pháp cũng như với dân tộc. Đặc biệt không thể không nhắc đến nhà sư yêu nước hoà thượng Từ Tâm đã bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo 1940. Hoà thượng Từ Văn có nhiều công đức và uy tín xếp hàng đầu các danh tăng ở Nam Bộ, được đương thời phong tặng cho Ngài là hoà thượng cả.
Năm 1920 người Pháp đã mời ngài qua tây chủ lễ cầu siêu cho binh sĩ người Việt chết trận cho nước họ trong thế chiến thứ nhất (1914 -1918). Cũng có tư liệu cho rằng Ngài được mời tham dự cuộc đấu xảo của các xứ thuộc địa Pháp tại Mairseille cùng với một số mô hình kiến trúc phiên bản đình chùa, ảnh tượng điêu khắc (đặc biệt là bộ tượng thạp bát La Hán) của tỉnh Thủ Dầu Một được tuyển chọn.
Trong những năm 1923 -1926, chùa Hội Khánh Thủ Dầu Một còn là nơi ẩn náu qui tụ các nhân sĩ: nhà nho, nhà sư yêu nước cùng lập ra “Hội danh dự” với sự tham gia của chính hoà thượng Từ Văn, Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (Thân phụ của bác Hồ), cụ Tú Cúc… mục đích của Hội là cổ vũ cho lối sống đề cao đạo đức, coi trọng danh dự và lòng yêu quý đồng bào đất nước.
Dù Hội chỉ hoạt động trong một thời gian ngắn nhưng đã gây dược ảnh hưởng đáng kể như nhận định của một nhà nghiên cứu: “ Những lời nói và việc làm của các cụ (trong hội danh dự – NHH) trực tiếp hay gián tiếp đã để lại cho dân chúng địa phương một ấn tượng tốt đẹp, ảnh hưởng sâu sắc lòng yêu nước của họ. Sau này chùa Hội Khánh thành một nơi mà nhiều lớp học sinh, thanh niên đến trọ học. Nhiều người trong số họ đã tham gia các phong trào yêu nước”.
Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, chùa Hội Khánh là trụ sở Hội Phật giáo cứu quốc tỉnh Thủ Dầu Một, đã góp nhiều công sức tâm huyết kể cả xương máu của các nhà tu, Phật tử nhà chùa. Trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân địa phương từ 1953, chùa là trụ sợ Phật giáo yêu nước tỉnh Bình Dương và đến 1983 chùa Hội Khánh là trụ sở của tỉnh Hội Phật giáo Bình Dương. Năm 1995, nơi đây Tỉnh hội xây dựng Trường cơ bản Phật học tỉnh Sông Bé (Bình Dương). Hiện thượng toạ Thích Huệ Thông trụ trì chùa Hội Khánh (từ 1988) và là phó ban thường trực tỉnh Hội Pháp giáo Bình Dương.
Năm 2008, Phật đài quy mô lớn, cao 22m được xây dựng ở khu đất phía trước chùa. Tầng trệt là dãy nhà chiều dài 64m, chiều ngang 23m dùng làm Trường Phật học, Thư viện … Tầng trên tôn trí đại tượng đức Bổn sư Thích Ca nhập Niết bàn cao 12m, dài 52m. Đây là một công trình mỹ thuật đáng tự hào của Phật giáo Bình Dương, được khánh thành trọng thể vào ngày Rằm tháng Hai năm Canh Dần (30-3-2010) mừng 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Du lịch, GO! - Theo Sở VHTTDL tỉnh Bình Dương, ảnh internet
Chùa xây dựng từ thế kỷ XVIII (1741), năm 1861 chùa đã bị giặc Pháp thiêu hủy. Đến năm 1868, chùa được xây dựng lại ở vị trí hiện nay, cảnh trí u nhã rợp bóng cây xanh và dưới tàn bốn cây dầu cổ thụ vươn cao đã trên hàng trăm tuổi. Ngôi chùa là một công trình kiến trúc tôn giáo, đồng thời cũng là một công trình kiến trúc gỗ lớn nhất tỉnh, với diện tích xây dựng 1.211m².
Với chiều dày về lịch sử, tôn giáo, kiến trúc mỹ thuật và truyền thống yêu nước gắn bó giữa đạo Pháp và dân tộc, chùa được công nhận di tích lịch sử – văn hóa cấp Quốc gia ngày 07/01/1993.
Di tích trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1891, 1906, 1917, 1991,1999. Năm 2004 trùng tu cổng chính. Vườn chùa có 9 ngôi bảo tháp, có giá trị mỹ thuật cao được trùng tu, tôn tạo vào năm 2006.
Năm 2007 chùa xây dựng thêm ngôi tháp 7 tầng cao 27 mét và tái tạo lại Phật tích “ Tứ động tâm”, gồm có: Vườn Lâm Tì Ni(nơi Phật ra đời), Bồ Đề Đại Tràng(nơi Phật thành đạo), Vườn Lộc Uyển(nơi Phật thuyết đầu tiên), Ta La Song Thọ(đức Phật nhập niết bàn) có ý nghĩa sâu sắc về đạo pháp.
Tuy đã được sửa chữa, trùng tu nhiều lần nhưng về cơ bản đây là ngôi chùa hiếm hoi vẫn còn giữ được phần lớn kiến trúc ban đầu. Không chỉ nổi tiếng về niên đại thành lập, giá trị kiến trúc nghệ thuật.
Cho đến nay chùa còn lưu giữ được nhiều cổ vật có giá trị cao về lịch sử văn hoá, tôn giáo, mỹ thuật, kể cả nhiều tự khí mộc bản (khắc in), kinh sách, liển đối, tài liệu, văn thơ, địa lý, y học cổ. Chùa Hội Khánh còn là một công trình điêu khắc chạm trổ tinh vi, khéo léo từng bộ phận, chi tiết trong nội thất như cột kèo, đầu dư, cửu võng, câu đối,...
Nét nỗi bật của ngôi cổ tự này là giá trị phong phú về mặt lịch sử văn hoá, nghệ thuật kiến trúc, đặc biệt phần lớn những di tích, cổ vật hàng mấy trăm năm được bảo tồn lưu giữ cho đến nay. Hội Khánh còn được xem là ngôi chùa tiêu biểu cho đặc điểm chung của các ngôi chùa cổ Bình Dương: “ Trong tỉnh có nhịều chùa cổ, đặc biệt ở đây là xứ sở của nghệ thuật, nên các chùa này đều xây dựng theo quy mô đẹp, trong chùa có nhiều tác phẩm trang trí, nhất là hệ thống tượng thờ đạt tiêu chuẩn, không nơi nào có được”.
Về cấu trúc chùa gồm bốn phần chính: Tiền điện – chánh điện; giảng đường kiến trúc này có 92 cột gỗ quý), Đông lang và Tây lang chùa bố trí theo kiểu “sắp đôi” nối liền nhau với kiến trúc “trùng thềm, trùng lương”. Đây là biến tấu đặc biệt trong kiến trúc theo truyền thống chùa cổ xứ Nam Kỳ. Chánh điện với kèo cột, vách gỗ và ba bộ cửa bức màn, còn có gần 100 tượng gỗ, các vị La Hán và thập điện Minh Vương dáng vẻ khác nhau được tạo bằng gỗ mít sơn son thép vàng.
Đặc biệt có hai bức phù điêu chạm hình 18 vị La Hán và các vị bồ tát, tạo nên một công trình điêu khắc tuyệt mỹ, có giá trị nghệ thuật cao mang đặc trưng của phong cách điêu khắc gỗ Bình Dương xưa.
Đây là công trình mang dấu ấn những bàn tay tài nghệ độc đáo của lớp thợ xứ Thủ (TDM) ở cuối TK XIX (trong đó phải kể đến các thợ như thợ phèn, đường, Trương Văn Cang, Nguyện Văn Ba, Nguyễn Văn Xù, Sáu Nhồng, Chính Trí…).
Về phần liễn đối, thơ văn còn lưu giữ phong phú, giá trị khó có ngôi chùa nào sánh kịp. Nơi chánh điện có những câu liễn đối tiêu biểu cho đạo vị thiền học được nhiều người nhắc đến:
“Nhược thực nhược hư trúc ảnh tảo giai trần bất động
thị không thị sắc nguyệt xuyên hải để thuỷ vô ngân”
(Như thực như hư, bóng trúc quét thềm, bụi trần chẳng động.
Là không là sắc, ánh trăng xoáy biển, nước biển không nhồi)
Nói riêng về cảnh chùa ở đây cũng như nói chung về bốn thiền môn, ở ngoài tiền điện còn có ba bài thơ cảm tác “Hội Khánh tự hữu cảm thi” (bài thơ cảm tác về chùa Hội Khánh) không chỉ có giá trị cao nói về sự tĩnh tâm, thanh tịnh của nhà Phật mà còn mang đậm phong cách cao nhã trong văn chương. Dưới đây xin trích lại phần diễn ý ra quốc ngữ đoạn cuối bài thơ: … giữa đám cỏ xanh dựng lên chùa như tại một cảnh tiên. Lòng vui rảo bước qua khu rừng khoe màu sắc. Đêm ở lại chùa cùng các tăng đàm đạo. Nơi Phật đường yên vắng ngồi tĩnh dưỡng. Im lặng tịnh tâm quay lại với chính mình. Bỗng hương huệ khó đưa nhiều nhà sư đến.
Ngoài ra, nhiều người cũng nhắc đến câu đối của cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc còn lưu ở chùa Hội Khánh, với ý nghĩa ngôn từ hàm súc của thiền học: “Đại đạo quảng khai thố giác khuê đàm để nguyệt. Thiền môn giáo dưỡng, qui mao thằn thụ đầu phong” (Tạm dịch: mở rộng đạo lớn như sừng thỏ như mò trăng đáy nước. Nuôi dưỡng mái chùa như lông rùa như cột gió đầu cây).
Về phần nghệ thuật trang trí nội thất, tranh tượng tự khí thờ phượng qua các công trình điêu khắc, chạm trổ qua các hoa văn hoạ tiết các bộ bao lam, tứ linh, cửu long, dây nho, lá lấp, hoa phù dung… đều rất công phu, sắc sảo… đặc biệt phải kể đến bộ bao lam “thập bát La Hán” (tạo tác 1921), bức phù điêu “tứ thời” ốp vào hai cột trước chánh điện; các bàn thờ chạm trổ tinh vi hoàn thành vào năm At Sửu (1925).
Nhà chùa còn giữ được bộ mộc bản in kinh cách đây trên 120 năm; vào năm At Dậu (1885) hoà thượng ấn long cho khắc bộ tam bản (mộc bản) và đây có thể là bộ mộc bản sớm nhất ở Thủ Dầu Một -Bình Dương.
Hiện chùa lưu giữ các bộ kinh A Di đà, Hồng danh, Vu lan, Bát dương, Phổ môn vốn đã được ấn tống cho các chùa trong tỉnh và đây cũng là các bộ kinh sách được khắc in quá sớm ở Nam Bộ. Sau đó, hoà thượng Từ Văn tiếp tục thực hiện một số bộ mộc bản in kinh 1930.
Đại hồng chung của chùa được đúc vào năm Quí Mùi (1883) do Bổn đạo Dương Văn Lúa hiến cúng. Điều đó cho thấy đạo phật đã phát triển khá sớm và khá vững mạnh tại địa phương này.
Từ khi thành lập đến nay chùa đã trải qua 10 vị trụ trì (9 vị đã viên tịch) trong đó không ít vị cao tăng, đạo đức tài năng nổi danh cả Nam Bộ. Ngoài đại ngạn thiền sư người khai sơn sáng lập chùa, có công hoằng pháp khá sớm ở địa phương này, còn phải kể đến hoà thượng Từ Văn (1877 -1931)- Ngài đã đào tạo nhiều đệ tử tài đức có công đức với đạo pháp cũng như với dân tộc. Đặc biệt không thể không nhắc đến nhà sư yêu nước hoà thượng Từ Tâm đã bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo 1940. Hoà thượng Từ Văn có nhiều công đức và uy tín xếp hàng đầu các danh tăng ở Nam Bộ, được đương thời phong tặng cho Ngài là hoà thượng cả.
Năm 1920 người Pháp đã mời ngài qua tây chủ lễ cầu siêu cho binh sĩ người Việt chết trận cho nước họ trong thế chiến thứ nhất (1914 -1918). Cũng có tư liệu cho rằng Ngài được mời tham dự cuộc đấu xảo của các xứ thuộc địa Pháp tại Mairseille cùng với một số mô hình kiến trúc phiên bản đình chùa, ảnh tượng điêu khắc (đặc biệt là bộ tượng thạp bát La Hán) của tỉnh Thủ Dầu Một được tuyển chọn.
Trong những năm 1923 -1926, chùa Hội Khánh Thủ Dầu Một còn là nơi ẩn náu qui tụ các nhân sĩ: nhà nho, nhà sư yêu nước cùng lập ra “Hội danh dự” với sự tham gia của chính hoà thượng Từ Văn, Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (Thân phụ của bác Hồ), cụ Tú Cúc… mục đích của Hội là cổ vũ cho lối sống đề cao đạo đức, coi trọng danh dự và lòng yêu quý đồng bào đất nước.
Dù Hội chỉ hoạt động trong một thời gian ngắn nhưng đã gây dược ảnh hưởng đáng kể như nhận định của một nhà nghiên cứu: “ Những lời nói và việc làm của các cụ (trong hội danh dự – NHH) trực tiếp hay gián tiếp đã để lại cho dân chúng địa phương một ấn tượng tốt đẹp, ảnh hưởng sâu sắc lòng yêu nước của họ. Sau này chùa Hội Khánh thành một nơi mà nhiều lớp học sinh, thanh niên đến trọ học. Nhiều người trong số họ đã tham gia các phong trào yêu nước”.
Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, chùa Hội Khánh là trụ sở Hội Phật giáo cứu quốc tỉnh Thủ Dầu Một, đã góp nhiều công sức tâm huyết kể cả xương máu của các nhà tu, Phật tử nhà chùa. Trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân địa phương từ 1953, chùa là trụ sợ Phật giáo yêu nước tỉnh Bình Dương và đến 1983 chùa Hội Khánh là trụ sở của tỉnh Hội Phật giáo Bình Dương. Năm 1995, nơi đây Tỉnh hội xây dựng Trường cơ bản Phật học tỉnh Sông Bé (Bình Dương). Hiện thượng toạ Thích Huệ Thông trụ trì chùa Hội Khánh (từ 1988) và là phó ban thường trực tỉnh Hội Pháp giáo Bình Dương.
Năm 2008, Phật đài quy mô lớn, cao 22m được xây dựng ở khu đất phía trước chùa. Tầng trệt là dãy nhà chiều dài 64m, chiều ngang 23m dùng làm Trường Phật học, Thư viện … Tầng trên tôn trí đại tượng đức Bổn sư Thích Ca nhập Niết bàn cao 12m, dài 52m. Đây là một công trình mỹ thuật đáng tự hào của Phật giáo Bình Dương, được khánh thành trọng thể vào ngày Rằm tháng Hai năm Canh Dần (30-3-2010) mừng 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Du lịch, GO! - Theo Sở VHTTDL tỉnh Bình Dương, ảnh internet
0 comments:
Post a Comment