Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Friday, 8 March 2013

Chợ tình Khau Vai còn gọi là “Chợ phong lưu”, phiên chợ tình nổi tiếng có một không hai này họp mỗi năm một lần vào ngày 27-3 âm lịch, trên một quả đồi tại thôn Khau Vai, xã Khau Vai, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.

Chợ tình Khau Vai có từ cách đây gần trăm năm, bắt nguồn từ câu chuyện tình của một đôi trai gái. Chuyện kể lại rằng, vào thời bấy giờ, đất Khau Vai chỉ có người Nùng và Giáy sinh sống. Họ sống riêng thành từng làng và mọi chuyện bắt đầu khi có một chàng trai người Nùng đem lòng yêu tha thiết một cô gái người Giáy ở làng bên...

Chuyện tình của họ đang đẹp như bông hoa, như đôi chim lửa của núi rừng Khau Vai thì cha mẹ, họ hàng hai bên biết chuyện. Họ ra sức ngăn cản bởi theo lệ thời đó, dân tộc nào chỉ lấy người dân tộc ấy, hơn nữa việc dựng vợ gả chồng là việc của cha mẹ nên việc đôi trai gái tự tìm đến nhau là trái với lệ làng…

Sự cấm đoán của hai gia đình đã khiến cho đôi trai gái quyết định cùng nhau trốn lên núi. Nhưng không ngờ cuộc chạy trốn của họ lại càng làm cho mâu thuẫn giữa hai gia đình ngày một trầm trọng.

Từ chỗ chỉ có xích mích giữa hai gia đình, dòng họ dần dần đã dẫn đến xích mích giữa hai làng người Nùng và người Giáy. Từ trên núi cao nhìn xuống thấy cảnh tượng xô xát giữa hai làng, đôi trai gái rất đau lòng, họ đành phải gạt nước mắt chia tay nhau. Hai người hẹn ước cho dù không thành vợ thành chồng nhưng mỗi năm sẽ gặp lại nhau vào ngày này (tức là ngày 27 tháng 3 âm lịch).

Thế là mỗi năm cứ đến ngày hẹn, chàng trai và cô gái lại lên ngọn núi đó gặp gỡ, giãi bày tâm sự… Cứ như vậy cho đến một ngày kia khi dân làng biết chuyện, cảm phục tình yêu của đôi trai gái, người ta quyết định mở chợ tại ngọn núi - nơi đôi trai gái đã hẹn hò nhau.

Chợ được mở ra, mỗi năm một lần làm nơi gặp gỡ cho những đôi trai gái vì nhiều nguyên nhân không lấy được nhau. Đúng ngày này, họ hẹn nhau về đây để tâm sự, thông báo cho nhau cuộc sống riêng của mỗi người, ôn lại những tình cảm, sự nhớ nhung do xa cách.

Có rất nhiều đôi vợ chồng cùng nhau đến chợ; đến nơi, vợ đi tìm bạn của vợ, chồng đi tìm bạn của chồng, họ không ghen tuông, không bực bội, mà tôn trọng nhau, tôn trọng bạn của vợ, của chồng mình; họ coi đó là sự linh thiêng, là bổn phận và trách nhiệm trước cuộc sống tinh thần của người bạn đời (thực tế tại chợ tình Khau Vai, các đôi bạn tình có thể ngồi tâm sự với nhau suốt đêm 26, cả ngày 27-3, chợ tình bắt đầu từ đêm 26 và kết thúc vào chiều tối ngày 27).

Câu chuyện xưa có cái gì đó hư hư thực thực, đã góp phần tạo nên sức lôi cuốn kỳ lạ về mảnh đất này, và thu hút biết bao du khách gần xa về thăm.

Khau Vai bây giờ không chỉ có người Nùng và người Giáy nữa mà còn có người Mông, người Dao cùng sinh sống đoàn kết bên nhau. Các chàng trai, cô gái được tự do tìm hiểu và quyết định hôn nhân mà không gặp phải sự cản trở của các bậc làm cha làm mẹ.

Chợ tình Khau Vai không chỉ là nơi hò hẹn của những đôi trai gái lỡ duyên nhau mà còn là nơi gặp gỡ làm quen của nam nữ thanh niên và đã có biết bao đôi trai gái nên vợ thành chồng từ chợ tình Khau Vai.

Đến Hà Giang trong những ngày tháng 3 âm lịch không thể không nhắc đến chợ tình Khau Vai. Với những giá trị tự thân của nó, chợ tình Khau Vai cũng đã trở thành điểm đến mỗi năm của nhiều du khách trong những ngày đầu xuân. Trong dịp này, du khách sẽ được thưởng thức những làn điệu dân ca, những câu hát đối, hát phướn của các chàng trai, cô gái người Tày, người Nùng, nghe tiếng sáo tỏ tình của các chàng trai người Dao, thưởng thức tiếng khèn thiết tha của các chàng trai người Mông gọi bạn, được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của những thiếu nữ vùng cao đang trong độ tuổi trăng rằm, xúng xính với những bộ váy áo thổ cẩm sặc sỡ sắc màu.

Chợ tình Khau Vai cho đến hôm nay tuy đã có gì đó thay đổi, nhưng vẫn giữ được nét đặc sắc, độc đáo riêng, mang đậm các giá trị văn hóa nhân văn.

Trong cái nhộn nhịp của sự mua bán, trao đổi hàng hoá, ta vẫn bắt gặp đâu đó ánh mắt kiếm tìm mải miết, vẫn nghe đâu đó văng vẳng lời kèn lá nỉ non hòa trong tiếng gió vi vu như kể lại cho du khách câu chuyện tình ngày xửa, ngày xưa…

Du lịch, GO! - Theo Cổng thông tin Điện tử tỉnh Hà Giang, ảnh internet
Núi Pắc Tạ (trong tiếng Tày có nghĩa là "vú của trời") hay còn gọi là Núi Voi, là ngọn núi cao nhất huyện Nà Hang, tỉnh Tuyên Quang, có dáng hình chú voi đứng bên nậm rượu. Sừng sững, uy nghiêm, thoắt ẩn, thoắt hiện trong mây vờn bên hồ thủy điện Tuyên Quang, núi Pắc Tạ là nguồn cảm hứng cho các văn nghệ sỹ, du khách sáng tác thơ ca, hội họa và nhiếp ảnh.

Núi Pắc Tạ còn có tên là núi “Xa Tạ” gắn liền với truyền thuyết từ xa xưa để lại. Xưa kia, tại một khu rừng rậm có rất nhiều loài thú dữ, trong đó voi là loài vật có sức khỏe nhưng lại khó thuần, dân bản tìm đủ mọi cách để thuần dưỡng voi dùng làm sức kéo chuyên chở hàng hóa.

< Bến thuyền.

Năm đó, có giặc ngoại xâm vào xâm chiếm, bà con địa phương tập trung tất cả binh lực dồn cho cuộc chiến đấu giữ nước, trong đó có đàn voi đã được thuần dưỡng. Thế nhưng, trong đàn voi có một con voi đực to khỏe nhất đàn, không ai thuần dưỡng được. Bao nhiêu tướng lĩnh giỏi phải chịu bó tay trước con voi hung dữ. Trong bản có một người quản voi dũng cảm xin đảm nhận công việc này.

Ngày đầu tiên, ông cho già trẻ, trai gái trong bản dùng đất đá chặn tất cả những dòng suối, khe lạch xung quanh vùng rừng voi sinh sống. Ba ngày sau voi đực khát nước, lúc này ông mới đổ rượu vào hõm đá cho voi uống thay nước.

Năm ngày, rồi mười ngày, voi uống rượu thay nước, lâu dần thành quen với rượu và người quản tượng. Ông đã thuần dưỡng được chú voi đực hung dữ, có thể đặt bành lên lưng điều khiển voi làm theo mệnh lệnh. Từ đó người dân trong bản gọi là “voi rượu”.

Đến ngày xuất trận “voi rượu” hùng dũng xông ra trận tiền phá tan đội hình quân giặc. Chiến thắng trở về, “voi rượu” được nhà vua phong làm “Voi Quận công” và mở yến tiệc linh đình chiêu đãi tướng sỹ. “Voi rượu” hút hết nậm rượu này đến nậm rượu khác. Say quá “voi rượu” tắt thở.

< Thác ở chân núi chảy vào hồ Nà Hang.

Nhưng kỳ lạ thay, voi chết mà vẫn đứng sừng sững uy nghiêm, dáng vẻ hùng dũng như lúc xung trận. Đêm ấy trời mưa tầm tã, gió rít ào ào như bày tỏ niềm tiếc thương của dân bản đối với “voi rượu”. Sáng hôm sau người ta thấy cả voi và nậm rượu đã hóa đá, khối đá ấy mỗi ngày một lớn dần lên thành ngọn núi Pắc Tạ ngày nay.

Dưới chân núi Pắc Tạ còn dấu tích một ngôi đền cổ. Tương truyền, vào đời Trần có người thiếp của tướng quân Trần Nhật Duật theo chồng đi kinh lý vùng sông Gâm và sông Năng. Trên đường về, thuyền chở người thiếp bị gặp nạn.

Do nước quá sâu, lại chảy xiết nên không thể cứu vớt được nàng. Cho đến mấy ngày sau, xác của nàng mới tìm thấy và được mai táng bên bờ sông Năng dưới chân núi Pắc Tạ. Ngôi đền thờ người thiếp được dựng ngay gần nơi chôn cất để tưởng nhớ người thiếp của tướng quân Trần Nhật Duật.

< Đập thủy điện ven chân núi.

Đền Pắc Tạ nằm ở địa thế cao, bằng phẳng dưới chân núi Pắc Tạ. Cửa đền quay về hướng nam, trông ra dòng sông Gâm theo thuyết phong thủy “Tiên minh đường hữu hậu chẩn” ở thế đất địa linh “sơn kỳ thủy tú”. Sự kết hợp giữa cảnh sắc thiên nhiên với nhịp sống con người miền sơn cước tạo nên cảnh sắc sơn thủy hữu tình.

Đây là ngôi đền thiêng, dân thập phương qua đây buôn bán lâm thổ sản quý hiếm đều dừng thuyền thắp hương cầu nguyện được như ý. Ngày nay, núi Pắc Tạ và đền Pắc Tạ là điểm du lịch sinh thái, tâm linh hấp dẫn du khách trong nước và quốc tế.

Du lịch, GO! - Theo báo Tuyên Quang, ảnh internet
Công trình khu du lịch tâm linh Ấn Sơn là tấm lòng của hậu nhân đối với tiền nhân lưu danh muôn thuở. Có thêm công trình này, Bình Định có thêm một địa chỉ để nhân dân cả nước, du khách gần xa đến thăm viếng, bày tỏ, chiêm bái tinh thần phong trào Tây Sơn trường tồn.

< Cổng đàn tế trời.

Nhân kỷ niệm 220 năm ngày mất Hoàng đế Quang Trung (1792-2012) ngày 13/9/2012, UBND tỉnh Bình Định đã làm lễ dâng hương và chính thức đưa vào hoạt động công trình Đàn tế trời đất tại núi Ấn Sơn thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn.

Ấn Sơn nằm trong dãy núi Hoành Sơn cao 364 m nằm ngang theo hướng Bắc – Nam, ở phía Tây xã Bình Tường, huyện Tây Sơn. Theo Quách Tấn, trong “Nước non Bình Định” các thầy địa lý Việt Nam cũng như Trung Hoa đều công nhận cuộc đất Hoành Sơn là đại địa, vì có nào bút (Bút Sơn – Hòn Trưng), nào nghiêng (Hợi Sơn – Hòn Dũng), nào ấn (Ấn Sơn – Hòn Giải), nào kiếm (Kiếm Sơn – Hòn Hóc Lãnh), nào cổ (Cổ Sơn – Hòn Trống), nào chung (Chung Sơn – Hòn Chuông) ở hai bên tả hữu.

Tương truyền mộ của Nguyễn Phi Phúc, thân sinh của Tây Sơn Tam Kiệt an táng ở Hoành Sơn. Sau khi chiếm được long huyệt ở Hoành Sơn thì 3 anh em Nguyễn Nhạc phát tướng, việc học hành võ cũng như văn tiến bộ lạ thường. Thầy học là cụ giáo Hiến, giỏi văn lẫn võ, rành khoa tướng số, nhìn thấy thần sắc 3 anh em họ Nguyễn, biết vận trời đã đến, bèn đem câu sấm “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công” ra khuyên Nguyễn Nhạc về lo mưu đồ đại sự. Vâng lời thầy, 3 anh em về Kiên Thành lo chiêu mộ hào kiệt.

< Đàn tế trời tại núi Ấn Sơn thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn.

Cũng theo tương truyền, vùng non nước cẩm tú linh thiêng Ấn Sơn cũng là nơi trời đất đã ban kiếm lệnh và ấn triện có khắc bốn chữ “Sơn hà xã tắc” cho ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Trước khi khởi binh dựng nên sự nghiệp vĩ đại đánh đổ hai tập đoàn phong kiến Trịnh Nguyễn, thống nhất sơn hà, quét sạch ngoại xâm, “dìu dắt dân vào đạo lớn, đem dân lên cõi dài xuân”, Tây Sơn tam kiệt đã lập đàn tế trời đất ở đây để nhận ấn kiếm và cầu trời đất phù hộ cho đại nghiệp thành công.

< Áng thờ Trời - Đất tại Đàn tế Trời - Đất trên Ấn Sơn.

Tháng 11.2011, công trình Đàn tế trời đất hay còn gọi là Khu du lịch tâm linh Ấn Sơn được khởi công xây dựng. Công trình gồm các hạng mục: Đàn tế Trời Đất, Đền Ấn và các công trình phụ trợ, được bố trí theo trục thần đạo hướng Nam – Bắc, trên khu đất rộng 46 ha, do Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam tài trợ.

Đàn tế trời tọa lạc trên đỉnh cao nhất của Ấn Sơn, cấu trúc 3 tầng, tầng trên cùng hình tròn gọi là Viên Đàn, có đường kính 27 m, tượng trưng cho Trời, được xây bao bằng đá ong, lan can đá màu đỏ bao quanh, nền đất nện chặt, một lối lên từ hướng Nam có 5 bậc, chính giữa Viên Đàn đặt sập đá và nhang áng đá là áng thờ Trời – Đất.

Tầng thứ 2 gọi là Phương Đàn, có hình vuông, chiều dài mỗi cạnh 54 m, tượng trưng cho Đất, cũng được xây bao bằng đá ong, lan can đá màu vàng bao quanh, 4 lối lên theo 4 hướng Nam, Bắc, Đông, Tây, mỗi lối lên có 9 bậc, nơi đây khi tế lễ sẽ bố trí các áng thờ thần như: Thần mặt trời, mặt trăng, các thần biển, sông, núi, đầm…

< Tam quan phía nam, cổng chính của Đàn tế Trời - Đất trên Ấn Sơn.

Tầng dưới cùng cũng hình vuông được xây bao bằng tường đá ong có 4 lối vào theo 4 hướng, hướng chính là hướng Nam với cổng tam quan, 2 tầng, lối đi chính có 2 tầng mái, bên trong tam quan là một bức bình phong bằng đá, ba hướng còn lại là 3 nghi môn kiểu tứ trụ thẳng hàng, là nơi chuẩn bị và một số nghi thức diễn ra ở đây trước khi tế lễ. Nằm bên phải Đàn tế là khu Đền Ấn gồm 3 hạng mục: Tiền tế có kiến trúc mặt bằng chữ Nhất, 5 gian, mái chái, có đầu đao.

Nhà Tiền tế có bàn thờ chung các tướng lĩnh và quân sĩ thời Tây Sơn. Tiếp sau Tiền tế là Phương đình – nơi tượng trưng cho sự thông thiên, giao hòa giữa Trời và Đất, giữa Âm và Dương, ở đây sẽ đặt bản sao của Ấn lệnh nhà Tây Sơn. Phía trong cùng là kiến trúc Hậu cung, mặt bằng chữ nhất, 3 gian, mái chái là nơi đặt bàn thờ cùng bài vị của 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Phía trước cổng Tam quan ngoài cùng của trục chính là hồ nước hình bán nguyệt vừa tạo phong thủy tốt cho hướng chính diện của Đàn tế vừa tạo điểm nhấn cho tổng thể qui hoạch Đàn thiêng. Ngoài hồ nước còn có một “nghi môn ngoại” ngăn cách giữa không gian tâm linh với bên ngoài.

Đàn tế Ấn Sơn được xây dựng theo kiểu thức Đàn thiêng tế trời, có nhiều tên gọi khác nhau: Đàn Nam Giao, Thái Giao, Giao Đàn, Giao Khâu, Viên Khâu, Thiên Đàn… Ở Việt Nam, dưới triều vua Lý Anh Tông (1138 – 1175), vào năm 1154 triều đình đã cho đắp Đàn Viên Khâu và đích thân nhà vua lên làm lễ tế Trời.

Từ đó về sau, triều nào cũng lập Đàn Nam Giao, với quy mô và quy định khác nhau, có triều quy định mỗi năm Tế Giao một lần vào tháng 2 âm lịch, có triều quy định 3 năm tổ chức một lần. Cuộc lễ Tế Giao lần cuối cùng ở Việt Nam vào thời Nguyễn, diễn ra dưới triều vua Bảo Đại (3.1945). Tế Giao là một lễ hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, mà trên hết là tinh thần hòa ái với thiên nhiên, với ước nguyện mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, thiên hạ thái bình.

Đàn tế trời đất Tây Sơn được khánh thánh đúng dịp kỷ niệm 220 năm ngày mất của Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ tạo thêm một điểm nhấn hấp dẫn trên trục du lịch lịch sử tâm linh về phong trào Tây Sơn dọc theo Quốc lộ 19 gồm Bảo tàng Quang Trung, Đàn tế trời Tây Sơn, những đền thờ nghĩa quân Tây Sơn ở An Khê –Gia Lai.

Du lịch, GO! - Theo Văn hiến Việt Nam và nhiều nguồn tin ảnh khác
Trước ngọn tháp uy nghi, người lễ chùa cảm thấy lòng đầy tin tưởng rằng, những ước nguyện đầu năm bày tỏ ở chốn thiêng liêng này sẽ linh ứng.

< Tháp Báo Ân được xây dựng theo mẫu thiết kế của các kiến trúc sư Việt Nam nổi tiếng và có tham khảo ý kiến của kiến trúc sư Nhật Bản. Tháp được xây dựng trên nguyên tắc kiến trúc truyền thống Phật giáo Việt Nam, với nét đặc thù là được thiết trí theo hình Tháp Bát giác (theo giáo lý Bát Chính Đạo). Cửa tháp mở ra theo 4 phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.

Khánh thành ngày 22/11/2010, xuân Tân Mão là mùa xuân đầu tiên tháp Báo Ân - Đại bảo tháp cao nhất Việt Nam - chính thức đón tiếp khách thập phương đến chiêm ngưỡng và lễ bái.

< Bên trong Tháp tôn trí 104 tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bằng đồng ngồi trên bệ đá, nhằm thể hiện trọn vẹn tinh thần bình đẳng trong giáo pháp của Người. Những pho tượng Phật trong tháp được kiến tạo theo 3 dạng kết cấu khác nhau, với chiều cao và trọng lượng tỉ lệ với các tầng của tháp.

Nằm trong khuôn viên chùa Bằng A (Linh Tiên tự), phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội, tháp Báo Ân được xây dựng dựa trên kiến trúc truyền thống Phật giáo Việt Nam. Tháp được xây dựng trong gần 7 năm, với kinh phí gần 20 tỷ đồng công đức của thập phương tăng ni Phật tử và nhân dân cả nước.

< Tầng 1 của tháp còn tôn trí 4 tượng Tứ trấn Thiên Vương (Đông phương: Trì Quốc Thiên Vương; Nam phương: Tăng Trưởng Thiên Vương; Tây phương: Quảng Mục Thiên Vương; Bắc phương: Đa Văn Thiên Vương). Các bức tượng được tạc bằng đá, cao 3,5m.

Được xây dựng dựa trên kiến trúc truyền thống Phật giáo Việt Nam, tính đến thời điểm này, tòa tháp đang giữ kỷ lục Việt Nam về độ cao và số lượng tầng (gồm 13 tầng). Chiều cao tính tới chóp đỉnh tháp gần 57m, đế móng sâu 45m. Bên trong tháp có 104 pho tượng Đức Thích Ca được đúc bằng đồng theo phương pháp cổ truyền.

< Trên 8 cửa ở tầng 1 của tháp Báo Ân có treo 8 pho sách (cuốn thư) được đúc bằng đồng, mỗi cuốn nặng 250 kg, có chạm nổi các thi phẩm – thiền kệ của các bậc cao tăng Việt Nam đương đại.

< Toàn bộ tầng 1 của tháp được ốp bằng đá Thanh Hóa, từ sàn, tường đến lan can, đặc biệt là những hàng cột đá cao 7m được thực hiện bởi nhóm thợ đá giỏi của huyện Ý Yên – Nam Định.

Chung quanh tháp tôn trí 4 pho tượng Tứ trấn Thiên Vương bế thế bằng đá. Trên 8 cửa ở tầng 1 của tháp 8 pho sách (cuốn thư) đúc bằng đồng, mỗi cuốn nặng 250 kg, có chạm nổi các thi phẩm - thiền kệ.

< Tháp Báo Ân nhìn từ vườn chùa, hiện còn 6 ngôi tháp thờ chư vị tổ sư và giác linh, trong đó có những ngôi tháp cổ: Linh Quang thờ Thiền Sư Tính Tuyên; Từ Quang thờ thiền sư Chiếu Sửu – Trí Điển.

Với việc khánh thành Đại bảo tháp Báo Ân, chùa Bằng A đã trở thành một điểm đến tâm linh đầy ý nghĩa trong những ngày đầu năm đối với nhiều Phật tử trong và ngoài Hà Nội.

< Bên cạnh tháp là 18 pho tượng La Hán ngồi thẳng hàng, mỗi tượng đều thể hiện đầy đủ sắc thái, cảm xúc khác nhau về những nỗi đau, sự khổ ải đè nặng lên kiếp sống hàng ngày của chúng sinh đang trầm luân trong luân hồi sinh tử.

< Tháp Báo Ân nhìn từ Quan Âm viên, nơi tôn trí bởi 45 pho tượng khác nhau gồm chính thân, 32 hóa thân theo phẩm Phổ Môn trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa và 12 đại nguyện của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Những pho tượng này nhằm nói lên tinh thần cứu khổ, ban vui của Bồ Tát Quán Thế Âm cho tất cả chúng sinh trong thế giới.

< Trong khuôn viên chùa Bằng A còn có một hồ nước hình vuông, giữa hồ tôn trí tượng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát hướng vế phía tháp Báo Ân.

Đứng trước ngọn tháp cao lớn, uy nghi với những đường nét kiến trúc đầy tính nghệ thuật, người đi lễ chùa không thể không cảm thấy trong lòng mình trào dâng cảm giác bình yên, và trong lòng đầy tin tưởng rằng những ước nguyện đầu năm được bày tỏ ở chốn thiêng liêng này sẽ trở thành hiện thực.

< Tháp Báo Ân hiện giữ 2 kỷ lục ở Việt Nam: kỷ lục tháp Phật giáo cao nhất Việt Nam và tháp có nhiều tượng Phật bằng đồng nhất Việt Nam. Đại bảo tháp Báo Ân đã trở thành một điểm đến tâm linh đầy ý nghĩa trong những ngày đầu năm đối với nhiều Phật tử trong và ngoài Hà Nội.

Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm, trụ trì chùa Bằng A chia sẻ: “Người Việt tin rằng, đi lễ chùa đầu năm không đơn giản chỉ để ước nguyện, mà đó còn là khoảnh khắc để con người hòa mình vào chốn tâm linh, bỏ lại phía sau bao vất vả trong cuộc mưu sinh. Hòa vào dòng người đi lễ, mỗi người trong chúng ta sẽ cảm nhận được sự giao hòa của trời - đất. Mùi hương trầm, mùi nến, sắc màu rực rỡ của đèn, hoa cùng với không gian thanh tịnh của chốn linh thiêng sẽ làm cho lòng người trở nên nhẹ nhàng, thanh thản”...

Du lịch, GO! - Theo Báo Đất Việt
Thác Dakmai còn được gọi là Dakmok thuộc huyện Phước long, tỉnh Bình Phước.

< Đường vào thác Dakmai với nhiều dốc dựng, quanh co chỉ dành cho người cứng tay lái...

Đây là một trong những thác nước đẹp nằm trên dòng chảy của Sông Bé.
Để đến được ngọn thác này du khách phải vượt qua những đoạn đồi dốc dựng đứng, khiến người không quyết tâm sẽ dễ dàng bỏ cuộc. Vậy nhưng khi ai đã đặt chân đến đây sẽ không quên được sức cuốn hút của vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ nơi này.

Đến vối Thác Dakmai, du khách sẽ được thưởng ngoạn sự kỳ bí của thiên nhiên, một màn nước trắng nhấp nhô trên đá và đột ngột đổ xuống từ độ chênh lệch đến 15m như dải tóc của người thiếu nữ đổ xuống chân Thác.

Điểm nổi bật tiếp theo của Dakmai là thác không chỉ sở hữu một dòng thác duy nhất, nếu đưa mắt nhìn về thượng nguồn, khách du lịch sẽ thấy một dải lụa nước trắng trải rộng đến 25m, lấp lánh như một dải bạc bằng nước trên vách đá của núi rừng. Tuy nhiên, để lên được điểm đó thì khách du lịch phải leo núi, cắt rừng.

Ở đây, nếu thiết kế một cầu treo du khách sẽ qua bên kia thăm hố Tử thần. Tại hố này đoàn thám hiểm hang động của Tây Ban Nha đã từng dùng thang dây leo xuống và thả trôi theo dòng xoáy nước để tìm cảm giác mạnh. Cảm giác của đoàn thám hiểm sau đó là sự ngỡ ngàng trước sự dữ dội của thiên nhiên, sự trầm trồ, tiếc nuối.

Tại sao nơi này chưa một nhà đầu tư du lịch tầm cỡ nào biết tới nơi hoang sơ này? Để giải đáp phần nào thắc mắc này, một công dân Bình phước cho rằng:

khi dự án “khu du lịch sinh thái Bà Rá – Thác mơ”hoàn thành, Thác Dakmai sẽ trở thành điểm tham quan lý tưởng cho du khách.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ internet

Thursday, 7 March 2013

Chiều thôn Tha không khí lành lạnh, mặt trời trốn biệt trong mây, không gian như đang khoác một chiều áo lam trắng mờ, đặc trưng của đất trời miền cao trong tiết chuyển mùa.

< Chiều trên thôn Tha.

Thôn Tha, xã Phương Độ, cách thị xã Hà Giang chưa đầy mười cây số, nằm trên đường đi cửa khẩu Thanh Thủy. Lộ chính dẫn vào thôn là con đường đất cán đá, đủ cho hai chiếc xe bảy chỗ tránh nhau. Cuối lộ hẹp hơn, tẽ ra mấy hướng qua thôn, đủ rộng cho đôi chiếc xe bò đi qua. Thỉnh thoảng một lối rẽ ra, theo con đê nhỏ uốn lượn như rắn dẫn vào xóm nhà.

< Hai du khách người Ý này đã quyết định qua đêm ở thôn Tha.

Cả thôn có hơn 90 ngôi nhà, kiểu nhà sàn truyền thống, tất cả bằng tre, nứa, gỗ. Họa hoằn mới gặp nhà ximăng, có thể là lớp học, trạm thông tin, trạm xá của thôn. Đó là nơi sinh sống của gần 550 người dân tộc Tày.

Nét duyên xóm quê bình yên

Xóm thôn im ắng, không nghe tiếng nhạc, tiếng xe. Chỉ có tiếng lộp bộp của chiếc cối giã gạo tự nâng lên hạ xuống nhờ nguồn suối nhỏ róc rách ngày đêm. Mấy con gà lạc mẹ chạy kêu líp chíp. Tiếng nhảy đớp bóng của vài con cá lớn dưới ao bèo lô nhô hoa sáng đỏ.

< Đường vào thôn Tha.

Chỉ cách xa rừng đôi cây số, nhưng thôn Tha sống hoàn toàn với nghề lúa nước. Người Tày ở đây chất phác, chiếc áo thường xuyên lố nhố vết bùn đen. Quần ống cao ống thấp vì phải thường xuyên lội ruộng. Nhưng đặc biệt là nhà cửa rất ngăn nắp, sạch sẽ. Phụ nữ lúc nào cũng giữ y phục váy đen truyền thống.

Vài du khách châu Âu dáng vẻ tò mò đi men theo bờ đê trơn trượt nhưng máy ảnh lúc nào cũng sẵn sàng. Đám học trò tan trường đã lâu nhưng chưa chịu về nhà, đang tụ lại chơi trò gì đó thích thú lắm bên con lộ chính.

< Những mái nhà sàn truyền thống êm đềm bên ruộng nước.

Có bảy ngôi nhà rộng đẹp nhất thôn sẵn sàng cho khách ở trọ. Tổng số giường của các “nhà nghỉ không tên” này cộng lại chưa tới 20. Tiện nghi chỉ là mùng, mền, chiếu, gối nhưng luôn được giặt sạch sẽ. Nếu khách nước ngoài không có thông dịch viên tiếng Việt thì trao đổi với chủ nhà bằng ngôn ngữ... tay, hoặc qua một quyển sổ với một số câu Anh - Việt thông thường nhất.

Một cách làm du lịch

Thôn Tha là trường hợp đặc biệt ở Hà Giang. Năm 2007, chính quyền chọn thôn làm “Làng văn hóa du lịch cộng đồng”, giáo dục và hỗ trợ đồng bào ở đây về ý thức vệ sinh môi trường như xây nhà cầu, làm chuồng trâu bò riêng, không nằm chung dưới nhà sàn, không thả rông gia súc phóng uế ngoài đường... Đến nay, những việc trên đã thực hiện được khá tốt. Đồng thời, tỉnh hỗ trợ mở được lớp tập huấn du lịch, trang bị cho người dân những kiến thức cơ bản nhất về giao tiếp, phục vụ. Một số gia đình được trang bị những phương tiện ngủ nghỉ cho du khách.

< Trong cái lạnh, cô gái Tày vẫn cần mẫn làm đồng.

Thôn cũng thành lập đội văn nghệ riêng phục vụ du khách. Nhiều du khách tìm đến đây bởi nét đặc trưng của văn hóa Tày không đâu có. Người dân hiền lành và quý trọng du khách. Họ rất tự trọng, không có tình trạng đeo bám, xin xỏ, bất cứ thứ gì du khách để quên họ cũng đi tìm giao trả lại.

Nhóm chúng tôi bốn người ở chung một nhà. Bữa tiệc miền cao đơn sơ mà hấp dẫn kỳ lạ. Thực đơn đặt trước từ chiều với những món cá bỗng nấu măng chua, gà đồi xé phay trộn gỏi, heo đen nướng ống tre cuốn với rau rừng.

< Gà đồng, heo đen - thực đơn nhà vườn buổi tối cho khách đặt hàng.

Đã vài ba năm tôi chưa bao giờ có được bữa tiệc thú vị như đêm ở thôn Tha với những món ăn hoàn toàn không hóa chất tăng trưởng, bảo quản. Tuy không có bia xanh, bia đỏ, chỉ hớp chút rượu ngô Sán Lùng chống cái lạnh về đêm, nhưng vẫn thấy mình say đắm không muốn bỏ thôn mà về.

Người Tày nấu ăn rất ngon, thực phẩm nuôi trồng tự nhiên, lúa trồng dài ngày, gạo mới đặc biệt thơm ngon và dẻo. Đêm nào có khách ở lại, sau bữa ăn đội văn nghệ sẽ trình diễn hát then, hát lếu, múa cấy… Hát then là lối hát cầu mùa, cầu duyên. Hát xen với múa, diễn sinh động, người đánh đàn tính sẽ tùy hứng bổng trầm, nhẹ nhàng, xôn xao theo người diễn. Còn hát lếu là loại hình dân ca đối đáp.

< Cuối ngày, trâu bò kéo nhau về chuồng.

Đáng tiếc là ở đây không có hàng hóa lưu niệm để bán cho khách, mặc dù khách ưa thích các loại túi đeo và nịt dao truyền thống của người dân địa phương. Trong cuốn sổ lưu niệm, tôi thấy một du khách Thụy Sĩ ghi hàng chữ Pháp, đại ý: Tôi ngạc nhiên về lòng chân thật của người dân. Cảnh trí ở đây nên thơ và yên lặng, không khí thật trong lành. Thức ăn quá ngon. Chỉ xin góp ý nhỏ: Tôi rất sợ m
uỗi. Vậy mà đêm qua đã bị muỗi đốt nhiều phát làm tôi ngứa ngáy khó ngủ.

Nói về Làng văn hóa du lịch thôn Tha.

< Ngày hội thôn Tha.

Làng văn hóa du lịch thôn Tha - Thành phố Hà Giang được khai trương và ra mắt ngày 15/4/2007, nằm ở phía Tây Bắc, cách trung tâm Thành phố Hà Giang 6 km đường đi cửa khẩu Thanh Thuỷ. Diện tích tự nhiên là 180 ha. Thôn có 112 hộ gia đình, với 524 nhân khẩu, trong đó: Dân tộc Tày chiếm 99,8 %. Thôn nằm ngay trục đường giao thông từ Thành phố Hà Giang đi cửa khẩu Thanh Thuỷ, rừng bao quanh toàn bộ phía Bắc và phía Tây của Thôn, tỷ lệ che phủ rừng đạt khoảng 50%, có thảm thực vật phong phú, ruộng bậc thang nằm xen lẫn khu vực cư trú của nhân dân, có 2 con suối nhỏ xen giữa và chia Thôn thành 3 cụm dân cư chính, chảy từ các sườn đồi phía Tây Bắc của Thôn gặp nhau tại trung tâm Thôn rồi đổ ra Sông Lô.

Đến với Làng văn hoá du lịch Thôn Tha, du khách không chỉ được tận hưởng không khí trong lành của một vùng quê. Nơi có những rừng cọ, đồi chè, hang động đẹp, những cánh đồng phảng phất mùi hương đồng gió nội. Nơi mùi hương của cỏ, cây, hoa, lá được hoà quyện, đan xen lại với nhau. Du khách còn được thưởng thức những món ăn đặc sản của một vùng quê miền núi như: Cá bỗng, gà đồi, vịt làng, lợn đen, các loại rau rừng…ngồi ăn quây quần bên bếp lửa hồng trong nhà sàn ấm cúng. Đó là những sản phẩm do chính bàn tay những người dân trong thôn chăn nuôi và chế biến thành những món ăn mang đậm nét dân gian.

< Trẻ em tại thôn Tha.

Ngoài thưởng thức những món ăn ngon, du khách còn được ru mình trong những làn điệu dân ca như hát then, hát cọi, múa cày, múa cấy do chính những chàng trai, cô gái trong thôn biểu diễn…

Đến đây, du khách còn được dạo thăm khung cảnh của một làng quê yên tĩnh và tìm hiểu về những bản sắc văn hoá dân tộc của người dân tộc Tày, với những ngôi nhà sàn truyền thống, cối giã gạo nước thâu đêm, phong tục tập quán, các sản phẩm dệt truyền thống như: Dây dao, túi lưới và đặc biệt là những bộ trang phục truyền thống của đồng bào nơi đây.

Du lịch, GO! - Theo Tam Thái (Tuổi Trẻ), Hagiangcity, Demen
Trong 14 di tích lịch sử văn hóa được Bộ VH-TT&DL xếp hạng ở Trà Vinh, chùa Ông (còn gọi Phước Minh Cung) được coi là một trong những công trình kiến trúc độc đáo và giàu ấn tượng nghệ thuật nhất vùng đất này.

< Mặt tiền chùa Ông Trà Vinh.

Phước Minh Cung tọa lạc trên đường Điện Biên Phủ, thuộc phường 2, TP Trà Vinh. Ngôi chùa uy nghi, lộng lẫy giữa thành phố từng được mệnh danh là đô thị xanh với hàng ngàn gốc cổ thụ mang lại không khí trong lành, tươi mát cho hơn 1 triệu đồng bào ở Trà Vinh.

Theo bảng tóm tắt lịch sử chùa, Phước Minh Cung là một công trình kiến trúc nghệ thuật vào những năm đầu thế kỷ 20. Nhưng theo bia ký còn lưu lại, chùa được xây dựng từ năm Bính Thìn 1556. Tính đến nay chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu, hai lần tu bổ gần đây nhất là năm Tân Mùi 1991 và năm Canh Thìn 2000.

Từ lâu nay, cộng đồng ba dân tộc anh em Kinh - Hoa - Khmer ở Trà Vinh quen gọi Phước Minh Cung là chùa Ông, vì ngôi chùa này cũng giống như những ngôi chùa khác của người Hoa, vị thần chính được tôn thờ là Quan Thánh Đế, tức Quan Công, một nhân vật thời Tam Quốc, nổi tiếng là công minh chính trực và trí dũng song toàn.

< Bàn thờ Ngọc hoàng Thượng đế tại Tiền điện.

Chùa có lối kiến trúc theo kiểu “nội công ngoại quốc”, mặt bằng tổng thể gồm 3 tòa nhà nằm ngang song song với nhau tạo thành Tiền điện, Trung điện và Chính điện, theo hình chữ tam. Dọc theo hai bên chùa là hai dãy Tả điện, Hữu điện hướng vào bên trong, tạo thành một công trình khép kín hình chữ khẩu.

Mái chùa lợp ngói âm dương tiểu đại theo nhiều tầng bậc, diềm mái bằng ngói tráng men màu xanh ngọc, tất cả cột kèo đều làm bằng gỗ quý, cho đến nay vẫn còn nguyên vẹn. Trên các gờ mái, mặt dựng đầu hồi được trang trí bằng các hình tượng Lưỡng long tranh châu, Bát tiên, Tứ linh, muông thú…

Toàn bộ khung sườn chịu lực bằng những thân cột tròn và vuông to lớn, vững chắc. Từ ngoài vào trong, rường cột nào cũng được chạm trổ sắc sảo bằng các họa tiết long, lân, hoa, lá. Trên các trụ rào, cổng rào cũng nổi bật nhiều tượng sư tử.

< Sân sau chùa.

Phần Tiền điện của chùa gồm 3 cửa ra vào chính - tả - hữu bằng gỗ trang trí rất mỹ thuật, ấn tượng nhất là các câu điển tích nhằm nói lên sự trường tồn và quốc thái dân an. Ngay trên cửa chính có một tấm biển ghi Phước Minh Cung bằng đại tự (chữ Hán) rất tôn nghiêm. Ngoài ra còn có các mảng phù điêu như Thanh Long, Bạch Hổ… Thú vị nhất là đề tài “Kết nghĩa đào viên” của ba anh em Lưu Bị, Quan Công và Trương Phi.

Bước vào cửa chính, khách thập phương đối diện ngay với bàn thờ Ngọc hoàng Thượng đế, bên phải là bàn thờ Hậu hiền và bên trái là Tiền hiền. Các khánh thờ, bàn thờ đều chạm khắc tinh vi theo môtip mỹ thuật truyền thống phương Đông, độc đáo nhất là các phù điêu với các đề tài Song phụng tranh châu, Lưỡng long triều nhật… trông rất cổ kính.

Nội thất chùa cũng như tiền sảnh, trên mái và trên vách chỗ nào cũng bố trí hoành phi, liễn đối, phù điêu với đồ án hoa văn: Song long tranh châu, Sĩ nông công thương, Tùng hạc trường xuân, Đào lộc trường thọ…

Tại Trung điện, ấn tượng đầu tiên đập vào mắt chúng ta là hình tượng Bát tiên kỵ thú nhằm nói lên quá trình tu tiên đắc đạo của 8 vị tiên cưỡi 8 loài thú khác nhau như Lý Thiết Quài, Lam Thái Hòa, Hà Tiên Cô...

< Gian Trung điện - từ trong nhìn ra phía trước.

Lộng lẫy nhất là chính điện gồm 3 gian thờ, nơi nào cũng được bài trí tôn nghiêm, các khánh thờ đều chạm khắc kỳ công, tinh xảo, nổi bật là long - vân, hoa - điểu. Gian giữa thờ Quan thánh Đế quân với bức hoành phi bằng đại tự “Kiền khôn chính khí” thếp vàng. Bên phải thờ Chúa sanh nương nương, khánh thờ chạm “Lưỡng long tranh châu” và “Long vân hoa điểu”. Bên trái thờ Phước Đức chánh thần, cũng trang trí thật tinh vi.

Tại ngôi chính điện còn được bố trí ba dãy bàn thờ, lúc nào cũng nghi ngút khói hương và đồ cúng bày biện thật tươm tất gồm bánh mứt, trái cây do khách hành hương mang đến hỉ cúng. Ngoài ra, phía sau chùa (cổng sau) còn bố trí một hoa viên gồm cây cảnh, non bộ, tiểu cảnh trong thật uy nghiêm và tráng lệ.

Có thể nói Phước Minh Cung là một công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật cao còn lưu lại ở Trà Vinh. Đó là những nét đẹp văn hóa truyền thống của cộng đồng người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long, rất xứng đáng cho mọi người cùng chiêm ngưỡng.

Ngày 16-11-2005, bà con người Hoa ở Trà Vinh, kể cả người Kinh và Khmer đều lấy làm tự hào vì Phước Minh Cung đã được Bộ Văn hóa - thông tin (nay là Bộ VH-TT&DL) công nhận là di tích cấp quốc gia về loại hình kiến trúc nghệ thuật. Từ đó đến nay, du khách đến viếng chùa, tham quan ngày càng đông, đông nhất là vào ngày lễ tết, rằm tháng giêng và các ngày cúng Ông.

Du lịch, GO! - Theo Hoài Vũ (Dulich Tuoitre), internet.

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống