Bài viết liên quan

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Auto scrolling

Giới thiệu bản thân

Bản quyền thuộc Công ty du lịch Việt Nam. Powered by Blogger.

Search This Blog

Monday, 25 March 2013

Sài Gòn, có thể nói mà không sợ cường điệu, là một “vương quốc” mì. Và mì, cũng có thể coi là một di sản của Sài Gòn. Nhà thơ Trần Tiến Dũng đã thử mì ở Chinatown New York, và lắc đầu, nói: “Thua xa mì Chợ Lớn”. Xem chừng, không phải thứ gì ở New York đều “oách”.

Ta hãy nghe anh kể lại “chuyện Kha Luân Bố Dũng phát hiện mì ở New York”: “Trong lúc ngồi chờ, tôi nhìn quanh thấy thực khách người gốc Á ở New York ăn mì khá kỳ khôi. Chuyện bưng cả tô húp nước lèo dù có khó coi nhưng cũng tạm quen, nhưng chuyện lấy cái muỗng múc mì đưa vô miệng, cọng mì rớt lên rớt xuống thiệt tình ăn kiểu đó thì mì có ngon cũng thành trớt quớt.

“Anh bạn tôi biện hộ: “Người Việt, người Hàn, người Nhật, kể cả người gốc Hoa, để biết họ mất gốc bao nhiêu phần trăm cứ nhìn cái cách họ ăn mì mà đoán biết. Những người sống như Tây, từ chối dùng đũa ăn mì không biết là nên mừng hay nên buồn!”

“Sau khoảng mười phút, trên bàn chúng tôi đã có một tô mì thiệt bự. Chúng tôi đoán chừng mì trong tô không phải là mì vắt như thường thấy ở Chợ Lớn. Ngó qua ông bếp đang nấu mì, chúng tôi thấy họ trụng một lần cả thau mì tươi. Nhớ cái cảnh mấy ông bếp ở Chợ Lớn trụng mì theo từng vắt mì, trụng từ nước sôi, qua xả bằng nước lạnh rồi dùng đôi đũa giũ cho từng sợi mì rời ra, sợi nào ra sợi đó sao mà công phu quá”.

Tìm tô mì ngon nhứt xứ!

Dũng cũng nói đã từng ăn mì ở Hong Kong một lần và thấy “dở tệ luôn”. Một cô bạn đồng nghiệp xác nhận rằng mì Thượng Hải cũng thua mì Chợ Lớn. Như vậy mì Chợ Lớn nhứt thế giới rồi. Thế còn mì Sài Gòn – Chợ Lớn ngon nhứt ở đâu?

Trong một buổi trò chuyện cuối năm với mấy người bạn, Trần Việt Đức, tác giả ảnh cuốn Ăn vặt Sài Gòn vừa xuất bản, nghe một chị bạn sành ăn mách cho quán mì ngon nhất Sài Gòn. Chị bạn này nói: quán này dời chỗ đến ba lần, khách phải đi tìm nó, vì quen với nó, không ăn mì ở đâu ngon bằng.
Chuyện cột đi tìm trâu này cũng khá thú vị. Chúng tôi cũng bèn “cột đi tìm trâu”.

Nhưng, như đã nói, nhiều quán nổi tiếng Sài Gòn không có tên. Nhất là loại quán “nghe nói”. Khi Đức gọi điện hỏi lại chị bạn, sau khi đi một đoạn dài qua bên kia cầu Nhị Thiên Đường, không thấy quán mì nào. Chị không trả lời được quán ở đâu.

Hỏi người dân địa phương thì họ cũng ú ớ, vì quán “nghe nói”, tên quán không có. Một người dân quận 8 có vẻ sành sõi, chỉ: nên quay lại cầu Nhị Thiên Đường, phía bên kia có nhiều quán người Hoa hơn. Nhớ để ý phía bên trái.

Bên trái là đường Tuy Lý Vương – một con đường có nhiều quán ăn. Đi một đoạn, nhìn vào từng quán mì, chợt thấy có một quán cũ kỹ, nhưng khách đông nghẹt, xe dựng đầy bên vỉa hè một nhà thờ Tin Lành bên cạnh, có cả xe hơi.

Chẳng biết có đúng là quán này không, chúng tôi vào. Gọi hai tô mì. Một khô một nước. Trần Việt Đức nói: “Ăn mì phải ăn khô mới thử được hết độ ngon”. Có lý của anh ta, nhưng đó không phải là cái lý của tất cả dân ăn mì. Quán này có hai cái riêng là heo viên và tôm viên; các thức khác được “tỉa tót” công phu về độ chín, nhất là mấy miếng gan heo. Nước ngon, mì nước tới cuối cùng hơi nhão, mặc dầu quán để riêng một người chuyên chăm sóc việc trụng và giũ mì tươi cho các sợi rời ra.

Ăn với cả các giác quan

Sợi mì ngon là khi ăn đến những miếng nước cuối cùng của tô mì, chúng vẫn còn “bảo lưu” được cái dai sừn sựt. Nhiều người nhìn đâu cũng thấy “sạn” cho rằng dai như vậy là do dùng nhiều nước tro tàu (để lấy KOH), không nên, không tốt cho sức khoẻ. Thực ra, với phương tiện hiện nay, khâu nhồi trộn cũng góp phần đáng kể vào độ dai của sợi mì. Vả lại, ta cũng không ăn mì hàng ngày để gọi là lạm dụng KOH.

Trụng mì lại là một bí quyết khác để bảo vệ độ dai của sợi mì. Mỗi khi vào tiệm mì, bao giờ tôi cũng chú ý đến thao tác trụng mì của quán. Ban đầu, mì được trụng vào nước sôi, rồi vớt nhanh ra đưa vào nước lạnh và vớt ra, trụng vào nước sôi lần nữa, sau đó mới giũ.

Sợi mì ngon nhất mà tôi đã trải qua là ở một cái quán nhỏ trên đường Trần Quốc Thảo, quận 3 - khúc gần Trần Quốc Toản đâm ra (*). Sợi mì nước ăn dai đến phút cuối của tô mì. Quán mì nhỏ, nhưng tầm gần 9 giờ sáng, đã hết mì sườn, mì cá, chỉ còn mì thập cẩm, mì hoành thánh.

Quán mì ở 67 Tuy Lý Vương chỉ là quán mì ngon, không thể là quán ngon nhất, như truyền tụng. Nó đúng là cái quán đã dời ba lần. Mới đầu là đầu quân cho nhà hàng Đại La Thiên, sau đó tách ra dời đến một địa điểm ở quận 5. Về quận 8, “đây là nhà riêng, về đã sáu, bảy năm nay”, ông chủ quán xác nhận.
Ở khu quận 8 này, mặt bằng giá tô mì, tô phở là 18.000 – 20.000 đồng, quán 67 tính 30.000 đồng mà khách vẫn đông chứng tỏ mì ngon.

Những quán mì ăn là nhớ phải gồm đủ thứ mà ký ức ta một thời trải qua. Quán 67 không có chiếc xe tranh kiếng có một khoảng bàn liền với xe – một cái không gian ăn, mà khách có thể thưởng thức mùi hương của cả chiếc xe mì. Mặc dầu, ở đây, giữa những người nhà vẫn nói tiếng Hoa với nhau, vẫn có thứ tiếng Việt lơ lớ. Nhưng chưa đủ. Thiếu những không gian và âm thanh như vừa kể, không thể là quán mì ngon.

Những hiệu mì còn sống sót hiện nay, trên đất này, là những hiệu mì có được thứ tài sản đáng kể: số “thực giả” trung thành đủ cho quán sống còn.

(*) Tác giả có nhầm lẫn khi "viết quán nhỏ trên đường Trần Quốc Thảo, gần đoạn đường Trần Quang Khải đâm ra." Thực ra, quán nằm trên đường Trần Quốc Thảo, cuối đường Trần Quốc Toản, quận 3.

Du lịch, GO! - Theo Ngữ Yên (SGTT) + internet
y là mốc 428 - điểm xa nhất về phía Bắc của Tổ quốc hình chữ S. Một dải đất nhỏ nhưng chứa đầy cảm xúc với những người muốn khám phá từng điểm của dáng hình đất nước.

Một “dân đi” có tên rất ngộ - Rắn Rong Ruổi - đánh dấu một điểm đỏ chói trên bản đồ. Và một lời rủ “đi mốc 428 nhé” đủ sức lôi kéo cả chục người thoát ra khỏi Hà Nội ồn ào để ngược về phía Bắc, lên Hà Giang đi tìm mốc đỏ.
Móng con ngựa Mông đập mạnh lộp cộp xuống đường. Đường dốc đá và hẹp khiến con ngựa ngại đi, nó liên tục xoay phải, xoay trái theo kiểu zích zắc để đi xuống.

Đi tìm mốc đỏ

Những người phụ nữ Mông nổi tiếng với đôi chân leo núi đá dốc đứng can: “Chúng mày về đi, đường dốc lắm, không lên nổi đâu”. Nhưng phía dưới, dòng Nho Quế xanh như ngọc và mốc 428 như một điểm đỏ vẫy gọi.

Dù đã đứng trên đỉnh cột cờ Lũng Cú nhưng không phải ai cũng biết sau Lũng Cú còn có một dải đất nhỏ nhô ra phía dòng Nho Quế. Từ đây, dòng Nho Quế đổ vào đất Việt, ôm trọn rẻo đất rồi chảy sang Mèo Vạc, Xín Cái về Cao Bằng. Thế nhưng, cái mỏm đất cực Bắc này là ngưỡng khó vượt. Đường đi khó không chỉ bởi xa và dốc, đến con ngựa Mông còn phải ngại, mà bởi đi chệch vài bước là có thể gặp bom mìn còn sót lại sau chiến tranh.

Nếu tính theo đường chim bay, khoảng cách từ bản Xéo Lủng xuống mỏm đất xa nhất chỉ 2km. Nhưng con đường đi xuống thử thách chân người trọn một buổi sáng. Nắng trên những triền núi đá quả khó chịu. Người dẫn đường cho chúng tôi là trung úy Bùi Đức Thoắn và thiếu úy Giàng Thìn Hòa. Hòa là người Mông ở cổng trời Quản Bạ, mới lên Lũng Cú được ít lâu. Không chỉ khách lạ như chúng tôi, Hòa cũng lần đầu tiên lên mốc 428 sau khi đã “thử chân” một vòng các điểm mốc khác của đồn biên phòng.

“Nhớ bước theo đúng dấu chân mình nhé” - trung úy Thoắn dặn dò trước lúc lên đường. Dò dẫm từng bước, đường chỉ có dốc xuống, đứng nghỉ cũng thấy chùn chân. Không biết bao nhiêu lần muốn bỏ cuộc, rồi lại đi, lại nhìn về hướng sông Nho Quế.

Cuối cùng, mốc 428 hiện ra, giản dị và xúc động. Một cột mốc nhỏ, dưới là sông, trên là vách núi nhưng phải xây mất hai năm, chủ yếu là sức người cõng đá và ximăng theo đường dốc xuống.

Từ điểm mốc đỏ nơi cực Bắc này, nhìn về phía nam là Tổ quốc mình.

Sống trên mốc đỏ

Từ Lũng Cú, phải đi 3-4km mới tới bản Xéo Lủng nằm chơi vơi trên vách núi sát đường biên. Vài ba chục nóc nhà người Mông đã trụ vững ở mảnh đất này, trồng ngô, trồng màu và trở thành những người lính biên phòng không quân hàm canh giữ mỏm đất cực Bắc thiêng liêng. Nhờ có những người Mông ở Xéo Lủng, mỏm đất cực Bắc không chỉ có màu đá xám xịt.

Bên cạnh những ngôi nhà trình tường là vườn cải, các loại hoa màu xanh mướt. Những phụ nữ lúi húi bên luống rau, sắc váy hoa rực rỡ. Nhưng người Mông không chỉ loanh quanh bên bếp lửa và vườn nhà. Phía dưới, nơi tưởng chỉ có đá là những vạt ngô. Ngô được gieo ở hốc đá, lưng chừng núi, bất kể chỗ nào có đất và trữ được chút ít nước mưa.

Thượng tá Nguyễn Hải Lý (đồn trưởng đồn biên phòng Lũng Cú) bảo chúng tôi là những người khách hiếm hoi của Xéo Lủng và mốc 428. Vậy nhưng người Mông ở Xéo Lủng hiếu khách kỳ lạ. Thấy mọi người mệt lả vì leo dốc, người đàn ông Mông gọi: “Có cần lấy đuôi ngựa kéo đi cho đỡ mệt không?”. Quả thật, những lúc này chỉ muốn giống như bó cỏ hoặc bó củi chất trên lưng ngựa. Thế mới biết đôi chân người Mông dẻo dai đến lạ kỳ.

Trung úy Thoắn kể ngày đường vào Xéo Lủng chưa được làm, mùa mưa hay mùa khô, bộ đội vẫn đều đặn đi tuần qua bản Xéo Lủng. Có những ngày tuyết rơi táp vào mặt, chân bị cước đau đớn nhưng vẫn phải bám chặt xuống đường đất đá. Ngay đêm giao thừa, biên phòng cũng phải đi tuần dọc toàn tuyến, không bỏ một điểm mốc nào.

27km đường biên giới từ cột mốc 411 đến 428 do đồn biên phòng Lũng Cú đóng tại Ma Lé (Đồng Văn, Hà Giang) canh giữ đều nằm cheo leo trên những mỏm núi đá xám. Nhưng họ cứ đi và đi, bất kể lúc nào...

Du lịch, GO! - Theo Hà Hương (báo Tuổi Trẻ)+ internet
Ngày 29/3, cầu Rồng cùng 2 cây câu khác sẽ thông xe đúng dịp kỷ niệm 38 năm giải phóng Đà Nẵng. Cầu Rồng là cây cầu có kết cấu nhịp thép hình dáng một con rồng dài 568m, nặng gần 9.000 tấn; độc đáo nhất từ trước đến nay, trong đó, phần thân rồng dài 530m, nặng 8.405,1 tấn.

Đây là cầu thứ 6 bắc qua sông Hàn với chiều dài khoảng 666m, nhịp chính dài 200m, rộng 37,5m và có 6 làn xe. Tổng vốn đầu tư khoảng 1.500 tỷ đồng. Cùng với cầu Rồng, cầu Trần Thị Lý và cầu đường Nguyễn Tri Phương nối dài cũng được khánh thành dịp này.

< Đầu rồng quay ra biển, cầu được thiết kế vượt qua đường Trần Hưng Đạo để nối trung tâm thành phố với các khu du lịch ven biển Đông. Theo kế hoạch, rồng sắt sẽ phun nước vào ban ngày, phun lửa vào ban đêm dịp cuối tuần và lễ hội.

< Mặt đường đang được trải nhựa bằng công nghệ hiện đại.

Cầu có kiến trúc độc đáo, với mô hình rồng thép dài 560 mét đăng ký kỷ lục Guinness. Cầu Rồng có kiến trúc độc đáo nhưng việc thi công chậm hơn so với dự kiến vì đòi hỏi kỹ thuật khó, tỷ mỉ.

< Những chiếc vảy lớn được gắn trên thân tạo thêm vẻ uyển chuyển cho rồng.

Liên quan kỷ lục thế giới dịp kỷ niệm ngày giải phóng Đà Nẵng, lãnh đạo tập đoàn Sun Group cho hay, tuyến cáp treo thứ 3 ở Khu du lịch Bà Nà Hills sẽ đi vào hoạt động ngày 29-3.

< Phía dưới đầu rồng được lát gạch đỏ còn khu vực thân nơi có các sợi cáp chịu lực được trải thép phủ sơn trắng.

Đây là tuyến cáp treo đạt 4 kỷ lục thế giới do tổ chức Guinness World Records công nhận…

< Vỉa hè dành cho người đi bộ rộng 2,5 mét được lát gạch và làm lan can kiên cố bằng thép tạo hình uốn lượn. Đường dẫn lên cầu dành cho người đi bộ được lắp kính an toàn.

Các kỷ lục của tuyến cáp mới được công nhận gồm: Cáp dài nhất thế giới với 5.771,61m; tuyến cáp có chênh lệch độ cao (trên 1 hành trình) lớn nhất thế giới với 1.368,93m; tuyến cáp có tổng chiều dài cáp dài nhất trong tất cả loại hình cáp treo hiện có trên thế giới, với 11.587m; và tuyến cáp nặng nhất thế giới với trọng lượng 141,24 tấn.

< Mỗi chiều đường trên cầu Rồng sẽ có 3 làn xe chạy. Tĩnh không thông thuyền 7 mét, đảm bảo cho tàu thuyền của ngư dân có thể qua cầu.


Các công nhân hoàn thiện những phần việc cuối cùng để phục vụ ngày khánh thành.
Sau hơn 3 năm thi công, dự kiến cây cầu dài hơn 660 mét, được đầu tư khoảng 1.700 tỷ đồng sẽ khánh thành ngày 29/3, dịp kỷ niệm 38 năm giải phóng Đà Nẵng.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ VnExpress, Tiền Phong

Sunday, 24 March 2013

Xe lam bắt nguồn từ tên gọi của dòng sản phẩm Lambretta của Italia, là một phương tiện giao thông công cộng phổ biến ở Việt Nam từ rất lâu, dành cho người lao động bình dân.

< Xe lam ở Sàigòn ngày xưa.

Đây là một loại xe khách hay xe chở hàng có cấu trúc tương tự như xe tuktuk , hiện vẫn là phương tiện giao thông phổ biến tại một số nước trên thế giới như Sudan, Bangladesh, Ấn Độ, Thái Lan...
Xe lam là loại xe thùng nhỏ có 3 bánh xe, gồm một cabin cho tài xế ngồi lái phía trước và một thùng xe để chở khách hay chở hàng phía sau.

Tên gọi này có nguồn gốc từ các dòng xe 3 bánh Lambretta FD (dung tích xy lanh 123 và 150 cc), FLI (175 cc) và sau đó là Lambro 200, 550 (đều 198 cc) của hãng Innocenti, Italy. Các dòng xe này lần lượt được nhập vào miền Nam Việt Nam từ đầu thập niên 1960 để thay thế xe ngựa thồ vẫn còn được lưu hành vào khoảng thời gian đó.

Các xe này được nhập ở dạng không đóng thùng, và tuỳ công năng chở người hay chở hàng sẽ được đóng thùng sau khi nhập. Bên cạnh đó, một số xe có kiểu dáng tương tự nhưng của các hãng khác (như Vespa...), ít gặp hơn, cũng được gọi là xe lam. Trong số gần 35.000 chiếc Lambro 550 xuất xưởng thì có 17.000 chiếc được xuất sang thị trường Thổ Nhĩ Kỳ và Việt Nam.

Giá một chiếc xe lam vào thập niên 60 khoảng 30 cây vàng nhưng đem lại nhiều lợi nhuận cho người chủ xe (theo lời 1 chủ xe: "Chạy một ngày, ăn cả tháng chưa hết"). Đặc biệt, sau khi thống nhất năm 1975, các phương tiện cơ giới khác bị thiếu xăng hoặc thiếu phụ tùng thay thế không sử dụng được, thì xe lam được dùng làm phương tiện phổ biến rẻ tiền và bước vào thời vàng son.

Lúc đó, chỉ riêng thị xã Biên Hòa, có 6 hợp tác xã xe lam với khoảng 1.000 đầu xe đăng ký chở khách chính thức, với hàng triệu lượt khách mỗi năm, vì vậy mà có thời Biên Hòa được ví như là "thủ phủ xe lam". Sau này, xe được đem ra và phổ biến cả ở miền Bắc Việt Nam, cho đến thế kỷ 21.

Tại Việt Nam, từ năm 2004, sau khi Nghị định 23/2004/NĐ-CP ban hành (Nghị định quy định về niên hạn sử dụng đối với các loại ô tô tải và ô tô chở người tham gia giao thông trên hệ thống đường bộ), xe lam bị hạn chế và từ từ bị cấm hẳn. Xe lam cũng được nói đến trong âm nhạc, như bài Chuyến xe lam chiều của Vinh Sử, có câu:

... Trên chuyến xe lam đông người chiều nay
Nghe từng cô đơn nỗi niềm chua cay
Còn đâu một chuyến xe lam
Ngày nao mộng ước vô vàn
Nay kỷ niệm em một mình mang

Du lịch, GO! - Theo VOVGT/Autonet
Chùa Diệu Giác (Diệu Giác tự), tên dân gian là chùa Phú Lộc, toạ lạc tại thôn Phú Lộc, xã Bình Trung, huyện Bình Sơn, cách tỉnh lỵ Quảng Ngãi hơn 20 km về phía bắc, áp sát phía tây Quốc lộ 1. Đây là một trong những ngôi cổ tự được xây dựng sớm nhất và có vai trò đáng kể trong lịch sử hoằng dương Phật giáo ở Quảng Ngãi.

Buổi ban đầu chùa có tên là Viên Tông tự, được chúa Nguyễn Phúc Khoát ban biển ngạch Sắc tứ vào ngày mùng 8 tháng 6 năm Giáp Tuất- 1754, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 15, triều vua Lê Hiển Tông. Năm Thiệu Trị nguyên niên (Tân Sửu- 1841) chùa đổi tên là Diệu Giác tự vì kỵ huý tên nhà vua -Nguyễn Phúc Miên Tông.

Sách Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, chép:


< Cổng Tam quan chùa Sắc Tứ Diệu Giác.

“Chùa Diệu Giác ở huyện Bình Sơn, chùa dựng trên gò cao, trước mặt trông ra hồ lớn nhỏ. Hồi đầu bản triều có sắc cho tên là Viên Tông, quy mô rộng rãi, sau trải qua loạn lạc, chùa bị tàn phá, đến lúc đại định, các tăng đồ mới tu bổ lại. Từ đấy đèn hương rất thịnh. Năm Thiệu Trị thứ nhứt (1841) đổi tên là chùa Diệu Giác, năm thứ 5 người địa phương trùng tu, nhà cửa sạch sẽ rộng rãi, giới luật trang nghiêm, nhiều người đến lễ và xin thẻ”(1).


< Hoành phi Diệu Giác tự.

Hiện chưa tìm thấy tài liệu nào khả dĩ giúp dẫn viện đích xác năm dựng chùa. Có ý kiến dựa vào truyền thuyết dân gian cho rằng chùa được kiến tạo vào năm Bính Ngọ -1666 và gắn với câu chuyện Huyền Trân công chúa (con gái vua Trần Nhân Tông) trên đường vào kinh đô Chà Bàn của nước Chiêm Thành để làm vợ Chiêm vương Chế Mân (1306) có dừng chân lại nơi này.

Chuyện cũ đã lùi xa vào dĩ vãng, thật khó để truy nguyên sự thật, song hiện nay trong khuôn viên nhà chùa có một am nhỏ nằm chếch về phía nam chính điện thờ nàng công chúa nhà Trần số phận long đong, nhưng cũng là một bậc nữ nhi lá ngọc cành vàng dốc lòng vì nước.

< Long vị Thiền sư Phật Tuyết Tường Quang.

Một số văn bản chữ Hán đã được Hoà Thượng An Thắng phiên dịch ra Quốc ngữ (hiện do cư sỹ Tâm Nhạc Nguyễn Hồng Khanh lưu giữ) cho biết, từ năm 1841 (Thiệu Trị nguyên niên) đến năm 1848 (Tự Đức năm thứ 2) chùa Diệu Giác có 3 lần trùng tu Đại Hùng bửu điện, cải danh biển ngạch, đắp tượng, bồi tháp vào các năm 1841, 1845, 1848.

Từ đó cho đến nay (2012) nhà chùa lại trải qua 3 lần trùng tu vào các năm 1959 (bồi tháp), 1974 (sửa chữa lớn) và 2010 – 2012 (sửa chữa lớn, chỉnh trang khuôn viên và mở rộng quy mô các công trình tu tập).

Kiến trúc ngôi chùa hiện nay so với trước đã có nhiều thay đổi. Tuy vậy, sự tôn nghiêm, cổ kính trong nội viện và cảnh trí phong quang của một ngôi cổ tự vẫn là những nét đặc trưng mà Diệu Giác tự vẫn còn lưu giữ đến ngày nay.

Theo lời truyền lại, xưa kia chùa được xây dựng theo kiểu chữ Tam, có 2 tầng mái chồng diêm, bốn góc uốn cong gắn đầu phụng.

Năm Tự Đức thứ hai – 1848 xây thêm bảo tháp Quán thế âm ở sân chùa. Nội thất ngôi chùa khá uy nghi, gian chính điện có bức hoành phi sơn son dát đồng.

< Chuông đồng.

Do tác động khắc nghiệt của khí hậu, thời tiết và bom đạn chiến tranh lại thêm tình trạng không có sư trụ trì trông coi trong một thời gian khá dài nên nhà chùa nhiều lần bị hư hại phải sửa chữa, trùng tu nhờ vào công sức chủ yếu của cư dân địa phương, trong đó có không ít trường hợp chỉ là cấp thời nhằm tránh cho các công trình khỏi sụp đổ.

Vì vậy, sự thay đổi vóc dáng ban đầu của ngôi chùa và tình trạng chắp vá, tạm bợ trong việc sửa chữa ở một vài đơn nguyên kiến trúc là khó tránh khỏi. Cũng vì hoàn cảnh như vậy mà kinh sách, khí vật của nhà chùa cũng bị suy suyển đáng kể.

Nhờ vào sự thành tâm của nhiều tăng ni, phật tử và dân chúng trong vùng nên sau bao nhiêu biến thiên, đến nay nhà chùa vẫn còn giữ được một số khí vật giá trị. Trong số đó, đáng chú ý là một khánh đồng, một tiểu hồng chung và một đại hồng chung đều có khắc 5 chữ Hán 'Sắc tứ Viên Tông Tự'.

< Am thờ Huyền Trân công chúa.

Trên thân đại hồng chung có dòng chữ Hán “Tuế tại Ất sửu niên, lục ngoạt, thập ngũ nhựt” (ngày rằm tháng 6 năm Ất Sửu). Vì đại hồng chung nầy do Hòa thượng Quảng Độ (1739 – 1811) chú tạo, nên Ất Sửu ở đây, theo tây lịch chính là năm 1885 (PL 2.399), niên hiệu Gia Long thứ 4.
Chùa hiện nay có kiến trúc tổng thể hình chữ 'khẩu'. Từ tam quan đi vào chừng hơn 50 mét là Đại hùng bửu điện. Đây là ngôi nhà chính, khang trang, bề thế, với 4 cột ở trung tâm kết hợp cột gạch và vách ứng lực đỡ 2 vì kèo trụ chồng chày cối, đầu lắp cánh dơi.

Qua bàn thờ niệm hương ở tiền đường là đến chánh điện. Tại đây, ở nơi cao nhất treo bức hoành phi có 3 chữ đại tự 'Diệu Giác tự'. Điện thờ Phật uy nghi, trên bậc cao là tượng Tam thế Phật, ở giữa là tượng Phật A di đà hào quang rạng rỡ phía sau đầu, bên trái của ngài là tượng Bồ tát Quán thế âm, bên phải là tượng Bồ tát Đại thế chí. Cả 3 pho tượng đều ở tư thế đứng.

< Tháp mộ Thiền Sư Chiêu Công.

Bên dưới, ở trung tâm là tượng Phật Thích ca mâu ni trong thế toạ thiền, tay phải cầm đoá sen giơ lên. Hàng dưới cùng có tượng Thích ca mâu ni lúc sơ sinh, gợi chuyện lúc ngài giáng sinh có chín con rồng xuống phun nước cho ngài tắm, đoạn ngài bước đi bảy bước, mỗi bước dưới chân nở một đoá sen, một tay của ngài chỉ lên trời, tay kia chỉ xuống đất mà nói rằng: "Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn!” (Trên trời, dưới trời, duy chi có ta là quí hơn cả)(2).

Trung tâm hậu điện là bàn thờ thiết đặt long vị các tổ sư, trụ trì đã viên tịch, phía trên có tượng Đạt ma tổ sư. Cạnh đó, ở bậc thấp hơn là bàn thờ các Phật tử và những người quá vãng theo di nguyện hoặc được người thân gởi nương tựa cửa chùa.

Ngoài ra, trong nội điện còn có bàn thờ chư thiên bồ tát, hộ pháp cùng các vị nhân thần theo truyền thuyết đã giác ngộ Phật pháp. Phía sau gian nhà chính là nhà tổ, nhà khách và nhà trù nằm giăng ngang.

Trong khuôn viên chùa Diệu Giác, ngoài miếu thờ công chúa Huyền Trân, (thường gọi là công chúa Hồng Hoa), còn có 3 ngôi mộ tháp, xây bằng đá ong, gạch đất nung và tam hợp chất. Đây là nơi gìn giữ pháp thân của Viên Tông toạ chủ Chiêu công (trụ trì đời thứ 1), Giám viện Đỗ Đại sư (đời thứ 2) và Quảng Độ Nguyễn Hoà thượng (đời thứ 5).

< Pháp mộ thiền sư Phật Tuyết Tường Quang.

Hằng năm, ngoài những ngày lễ, vía theo nghi lễ chung của nhà Phật, chùa Diệu Giác lấy ngày viên tịch của Hoà thượng Quảng Độ (17 tháng 9 âm lịch) làm ngày hiệp kỵ các vị tổ sư, trụ trì và tăng chúng. Những năm gần đây, vào các dịp lễ trọng của Phật giáo và ngày hiệp kỵ, phật tử cùng khách thập phương về dự khá đông đúc, làm sống lại cảnh chùa thời hưng thịnh từng được Quốc sử quán nhà Nguyễn ghi nhận.

Một trong những đặc điểm trong lịch sử chùa Diệu Giác là các nhà sư trụ trì qua các đời thuộc nhiều thiền phái khác nhau (Thiên Đồng, Mộc Trần Đạo Mân, Thiệt Diệu Liễu Quán, Minh Châu Hương Hải, Minh Hải Pháp Bảo…) nhưng vẫn duy trì nghiêm ngặt giáo pháp, gìn giữ mối tương thân huynh đệ cùng tôn chỉ hoằng độ chúng sanh.

Mặc khác, đây cũng là ngôi chùa mà sự gắn bó với người dân quanh vùng rất sâu nặng, thể hiện qua việc nhiều lần lý hương làng Phú Lộc đứng đơn khấu trình triều đình xin trùng tu, tôn tạo; nội dung các câu đối gắn bó tên chùa và tên làng; một số công trình trùng tu còn văn bia ghi rõ công lao đóng góp của dân chúng.

Suốt thời gian khá dài không có sư trụ trì, việc hương khói thường nhật và các dịp lễ cùng việc gìn giữ ngôi chùa là do phật tử và dân cư quanh vùng đảm nhận. Điều này thêm một lần nữa cho thấy tín ngưỡng Phật giáo sâu nặng tư tưởng hoà đồng, khoan dung, gắn bó sâu đậm và trở thành một bộ phận hữu cơ của nền văn hoá Việt.

Chùa sắc tứ Diệu Giác đã được Bộ Văn hoá Thông tin, nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hoá quốc gia, tại Quyết định số 06/QĐ-VH ngày 13/4/2000.

(1) Quốc sử quán triều Nguyễn; Đại Nam nhất thống chí;  bản dịch Phạm Trọng Điềm; Nxb Thuận Hoá Huế; 1992; trang 441, 442.
(2) Chữ “ ngã” ở đây xin được hiểu là Phật tánh, chơn ngã, chơn tâm.

Du lịch, GO! - Theo Lê Hồng Khánh (báo Quảng Ngãi), Vinh Bổn, internet
Có một điểm du lịch khá hấp dẫn, lãng mạn tại dải đất miền Trung nắng gió. Đó là thác Ồ Ồ (thuộc thôn Lộc Đại, xã Quế Hiệp, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam).

< Thác Ồ Ồ tại Đại Lộc, thuộc thôn Quế Hiệp.

Điều đặc biệt khi đặt chân đến thác nước này là không gian núi rừng hiện ra vô cùng hoang sơ, yên bình, chỉ có tiếng nước chảy của dòng suối đẹp tuyệt vời. Không chỉ ngắm cảnh, chụp ảnh kỷ niệm, nhờ có bãi cát bồi rất cạn dưới thác, du khách cũng có thể yên tâm ngâm mình trong dòng nước mát lạnh.

Khe Đá Trắng mà dòng thác đổ xuống cũng thật phong phú sản vật của suối núi. Tên gọi của nó có thể cũng hoàn toàn lạ lẫm với người dân miền xuôi như cá lấu, cá xanh, cá trèn, cua đá, cá bống dĩa, tôm suối núi... Nếu ai đã quen với cuộc sống núi rừng thì cũng có thể tạo ra món “ẩm thực cua đá” do mình tự câu, bắt được dưới khe để thưởng thức.

Huyện Quế Sơn còn có tiềm năng du lịch với các nơi du lịch khác như: suối Tiên (Quế Hiệp), suối Nước Mát (Quế Long), hồ An Long (Quế Phong), suối nước nóng Tây Viên (Quế Lộc). Những địa điểm này có tiềm năng du lịch nhưng chưa được khai thác, cần có các nhà đầu tư để phát triển khu vục trên.

< Bạn lưu ý: Địa danh thác Ồ Ồ cũng là tên của một dòng thác đẹp tại Tân Long, Hướng Hoá, Quảng Trị (ảnh bên). Có lẽ tên gọi Ồ Ồ xuất phát từ người địa phương khi nghe tiếng nước chảy ì ầm ngày đêm.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ báo Lao Động và nhiều nguồn khác.
Khu di tích - danh thắng Đakrông là tên gọi chung để chỉ cụm di tích - danh thắng nằm ngay hai bên quốc lộ 9 ở Km50, tại điểm khởi đầu của quốc lộ 14A, thuộc địa phận xã Đakrông - huyện Đakrông. Thành phần cấu thành khu di tích - danh thắng gồm có: Mỗi thành phần đều có một vẻ đẹp riêng và bố trí rất hài hoà, hội tụ gần nhau tạo nên một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, trữ tình lại có giá trị lịch sử, văn hoá, khảo cổ, sinh thái…

Sông Đakrông.
Sông Đakrông bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, gần biên giới Việt - Lào hợp với sông Rào Quán, chảy dọc theo Đường 9, xuôi về Ba Lòng rồi đổ ra Cửa Việt theo sông Thạch Hãn. Vì vậy sông Đakrông còn được gọi là thượng lưu sông Thạch Hãn.

Sông Đakrông có truyền thuyết về nguồn gốc đượm chất sử thi và nhân văn. Du khách vừa chiêm ngưỡng cảnh núi non hùng vĩ, vừa được lắng nghe câu chuyện về cô gái Đakrông. Đoạn tại cầu treo được xem là đoạn sông đẹp nhất. Tuy không rộng nhưng đoạn này sông uốn lượn quanh co, men theo chân những dãy núi cao dựng đứng hai bên. Có nơi nước sông phẳng lặng, lững lờ trôi, lại có nơi nước cuộn ào ào như thác, vượt qua những dãy đá nhấp nhô giữa sông.

Những năm 1959 - 1964, đoạn sông này là điểm vượt bí mật của tuyến đường dây 559 - tuyến đường mòn Trường Sơn - Hồ Chí Minh đầu tiên. Ba điểm đầu Khe Xom, cầu Cu Tiền và Xom Rò (cách trung tâm khu danh thắng 3 - 7km về phía Đông) đã được đưa vào danh mục những di tích quốc gia năm 1986.

Cầu treo Đakrông.

Cầu treo Đakrông được xem là điểm trung tâm của khu di tích - danh thắng. Giai đoạn năm 1972-1975, bắc qua sông Đakrông tại địa điểm này là một chiếc cầu sắt và trở thành tuyến vận tải quan trọng cho chiến trường miền Nam. Sau ngày Tổ quốc thống nhất, được sự giúp đỡ của nước bạn CuBa, một chiếc cầu treo duyên dáng dài 100m, rộng 6m thay thế cho cầu sắt. Năm 1999, do thời gian bảo quản quá hạn, cầu đã sập. Một lần nữa được sự quan tâm của Trung ương và nước bạn CuBa, cầu treo Đakrông đã được xây dựng lại khá qui mô tráng lệ.

Cầu treo Đakrông không chỉ là điểm đầu của tuyến giao thông chiến lược quan trọng mà còn tạo cảnh đẹp cho khu di tích - danh thắng bởi được đặt vào giữa một khung cảnh núi rừng trùng điệp, như là nét chấm phá nổi bật của bức tranh toàn bích.

Dãy núi Ta Lung, núi Klu.

Những dãy núi Ta Lung, Klu…đứng sừng sững hai bên sông Đakrông, hai bên Đường 9, Đường 14, tạo nên một quần thể núi non ẩn hiện với mây, in hình xuống dòng sông. Núi ở đây vừa có những vách đá dựng đứng cao chót vót vừa là một trong những nơi rất hiếm ở miền Trung còn bảo quản được thảm rừng già. Cây rừng đủ chủng loại, loại cây có đường kính 0,5 - 0,7m chiếm số lượng lớn. Khách đến không chỉ để du lịch sinh thái, đắm chìm trong cõi rừng già mà còn tham quan những con đường mòn huyền thoại do cha ông đã tạo nên để vào Nam đánh quân xâm lược Mỹ.

Suối nước nóng Klu (nơi có di chỉ khảo cổ).

Cách cầu treo Đakrông về phía Đông Bắc không xa là nơi khởi nguồn của dòng suối Klu. Theo các nhà nghiên cứu, mỏ nước khoáng này có hàm lượng bi carbonate và calci từ 300 - 400mg/lít, các chất này có tác dụng giúp tiêu hoá tốt, chống ợ chua. Đặc biệt có chất metasilich với hàm lượng trên 50mg/lít, tác dụng tăng khả năng chống viêm nhiễm.

Đây cũng chính là di chỉ khảo cổ quan trọng. Theo giáo sư Trần Quốc Vượng, người đã từng đến đây nghiên cứu thì di chỉ này thuộc thời đại đồ đá cũ. Trong hội nghị Khoa học quốc tế về khảo cổ tại Chiềng Mai (Thái Lan), giáo sư đã báo cáo và được đánh dấu trên bản đồ khảo cổ học thế giới.

Bản dân tộc Vân Kiều (bản Xa Lăng và bản Klu)

Khu di tích - danh thắng Đakrông còn là điểm du lịch phong phú loại hình bởi du khách sẽ được tiếp xúc, thăm viếng dân tộc Vân Kiều, Pa Cô - những dân tộc kiên cường trong đấu tranh chống ngoại xâm. Hiện có hai bản dân tộc: Xa Lăng và Klu cư trú tại khu vực này (cách cầu treo không quá 1km). Du khách được làm quen với dân tộc Pa Cô, Vân Kiều thông qua cuộc sống đời thường và những sinh hoạt văn hoá cộng đồng của họ.

Đến với Quảng Trị, bên cạnh việc tham quan những di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến mang tầm vóc quốc gia, du khách còn được tận mắt thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên trữ tình, mang dấu ấn lịch sử, văn hoá sâu sắc của Đakrông.

Sự phong phú về đối tượng tham quan trên mảnh đất lửa Quảng Trị chắc chắn sẽ thu hút đông đảo khách trong và ngoài nước.

Du lịch, GO! - Theo Quangtri.gov.vn, ảnh internet
“…Ôi quê ta bánh đa, bánh đúc / Nơi thảo thơm đồng xanh, trái ngọt"… Những câu ca trong bài Về quê của nhạc sĩ Phó Đức Phương qua giọng hát truyền cảm của ca sĩ Quang Lý như đưa tôi về với những ngày xưa yêu dấu nơi quê nhà...

Ở quê tôi, sau vụ mùa là thời gian rảnh rỗi. Khi nước trên đồng bắt đầu rút cạn xuống các lung, đìa, ao, đầm… cũng là thời điểm các cậu tôi rủ nhau đi tát đìa bắt tôm. Chỉ cần hai người dùng gàu dai tát vài giờ, nước giựt xuống khoảng 2/3 đìa là lũ tôm càng giơ râu nổi lên.
Tôi cùng cậu tranh thủ lội xuống đìa “chộp” tôm cho vào giỏ. Loáng chốc đã được lưng lửng thùng. Tôi khệ nệ mang thùng tôm về nhà cho ngoại để chế biến món ăn và trưa đến thế nào cả nhà cũng được thưởng thức món bánh đúc nhưn tôm do ngoại làm…

Hồi đó, tôi hay lẽo đẽo theo ngoại để xem ngoại chế biến món ăn dưới bếp. Muốn làm một ổ bánh đúc ngon với tôi thật tình quá công phu. Muốn bột không bị mềm, nhão, ngoại đã chọn gạo cũ ngon ngâm trước vài giờ rồi mới xay thành bột. Ngoại cứ thoăn thoắt cho bột vào thau, vắt nước cốt dừa, trộn bột cho hòa tan và dùng vợt lược cho bột mịn không còn tạp chất. Nêm bột với đường, muối... cho vừa khẩu vị để sẵn ra thau.

Riêng tôm, phải lựa tôm còn tươi, rửa sạch, lột vỏ, rút bỏ chỉ lưng, nặn gạch tôm để ra tô, cho khoảng hai muỗng cà phê đường vào gạch tôm, đánh tan. Dùng dao bằm đầu tôm lẫn thịt tôm cùng thịt nạc dăm, để sẵn (nếu không có tôm sống thay bằng tôm khô cũng được).

Củ sắn lột vỏ rửa sạch, xắt sợi, bằm nhỏ. Hành tím lột vỏ rửa sạch, bằm nhuyễn. Sau đó, cho tôm, thịt, củ sắn bằm ướp gia vị muối, đường, bột ngọt cho vừa khẩu vị. Phi hành thơm rồi cho hỗn hợp vào chảo xào chín. Ngoại nói gạch tôm là phần quan trọng, làm cho nhưn bánh thơm ngon và có màu sắc hấp dẫn. Nếu không có gạch tôm thì mới sử dụng màu hạt điều thay vào.

Cuối cùng là khâu hấp bánh. Trước khi đổ bột vào khuôn, phải thoa một lớp dầu ăn để khi bánh chín lấy ra không bị dính. Xếp khuôn nhôm vào xửng khi nước trong nồi sôi, nhanh tay và gọn gàng, ngoại dùng vá múc bột đổ lớp thứ nhất vào khuôn, đậy nắp lại.

Chờ vài phút sau, khi bột vừa chín, ngoại dùng vá đổ tiếp lớp thứ hai (như đổ bánh da lợn), và cứ thế tiếp tục cho đến khi khuôn gần đầy, xúc hỗn hợp nhưn đổ lên trên và hấp cho chín hẳn. Khi bánh đã nguội, lấy bánh ra, xắt miếng hình chữ nhật hoặc hình thoi cho vào đĩa là xong.

Bánh đúc thường ăn với nước mắm tỏi ớt chua ngọt, nhưng theo ngoại để tăng hương vị cho món ăn nên ăn kèm với dưa leo bằm, giá trụng, rau thơm, và nếu thích có thể chan thêm vài muỗng nước cốt dừa đã thắng chín vào.
Mảnh vườn xưa nay trở thành khu tái định cư, và ngoại cũng đã xa khuất. Những ngày hè ở quê cùng các cậu tát đìa bắt tôm đã trở thành hoài niệm. Để đỡ nhớ, trong những dịp lễ hay ngày nghỉ cuối tuần, tôi cùng gia đình vào quán thưởng thức món ăn dân dã này.

Gắp một miếng bột bánh đúc cho vào miệng nhai một cách từ tốn… Cũng vị béo của bột, ngọt thơm của tôm, thịt… nhưng sự cảm nhận tinh tế trong tôi hình như còn thiếu thiếu một thứ gì đó, phải chăng đó là “chất liệu nồng ấm” do bàn tay ngoại làm?...

Du lịch, GO! - Theo Thanh Tâm (Báo Tuổi Trẻ), internet
Hàng năm, cứ vào mùng 8, 18, 28 tháng Giêng Âm lịch (ngày vía Bà), người dân và du khách thập phương lại nườm nượp kéo nhau viếng chùa Suối Đổ, ngôi chùa nằm trên núi cao hơn 200m có con suối đổ xuống, nổi tiếng là linh thiêng.

Từ Nha Trang, đi theo Quốc lộ 1A khoảng 10km, rẽ trái vào một con đường làng thuộc xã Diên Toàn, huyện Diên Khánh, rồi chạy thẳng đến chân núi là đến đường lên Suối Đổ. Từ đây, khách viếng chùa phải leo bộ lên khá cao nhưng cũng dễ đi vì có các bậc thang bằng xi-măng vững chãi và khung cảnh thiên nhiên mát mẻ. Bạn có thể vừa đi vừa ngắm dòng suối róc rách, len lỏi giữa rừng núi nên thơ.

Đi hết những bậc thang, trước mắt bạn sẽ hiện ra ngôi chùa nổi tiếng, xây dựng cheo leo trên núi. Chùa Suối Đổ là tên gọi quen thuộc của người dân địa phương.

Thực ra, ở đây có 2 ngôi chùa gọi là: Quan Âm Sơn Tự và Phổ Đà Sơn Tự. Quan Âm Sơn Tự là nơi tập trung đông khách viếng nhất. Chánh điện thờ Phật Quan Âm uy nghi và lộng lẫy, bên trái là miếu thờ Thánh Mẫu Thiên Y A Na, bên phải là đền thờ “Ngũ mẫu” Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Vào ngày Vía, ngôi chùa này đón hàng ngàn lượt khách viếng. Như một nét văn hóa du xuân của người Việt, khách thập phương đến đây để cầu bình an, may mắn trong năm mới.

Đặc biệt, khách viếng được chùa phục vụ cơm chay miễn phí. Được biết, vào ngày mùng 8 Tết, các Phật tử của chùa đã phục vụ hàng ngàn thực khách nhưng có thể thấy không khí ở đây luôn trật tự, du khách đến đây luôn muốn dùng cơm chay tại chùa như một cách lấy lộc đầu xuân.

Bên cạnh chùa là dòng suối trong mát, nơi trẻ con rất thích chơi đùa. Men theo những triền đá bên suối bạn có thể đến được Phổ Đà Sơn Tự. Ngôi chùa này cũng có cảnh sắc rất nên thơ với hồ sen và núi đá bao quanh. Từ đây, những du khách thích khám phá có thể tiếp tục du ngoạn lên Giếng Tiên nằm trên tận đỉnh núi, nơi bắt nguồn của dòng nước đổ xuống quanh năm không bao giờ cạn, tạo thành Suối Đổ.

Nước của Suối Đổ trong mát lạ thường đến nỗi nhiều lời đồn đại có thể chữa được nhiều bệnh. Nhiều người đến đây còn mang theo chai, lọ đựng đem về uống. Không biết thực hư ra sao, nhưng chỉ riêng cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp của nơi này cũng đã đáng để kéo nhau “đi chùa Suối Đổ”.

Du lịch, GO! - Theo Thanh Thảo (báo Khánh Hòa)

Công ty du lịch

Công ty du lịch >>> Siêu thị mevabe dành cho mẹ và bé ,quần áo trẻ em >> thời trang trẻ em
Lên đầu trang
Tự động đọc truyện Dừng lại Lên đầu trang Xuống cuối trang Kéo lên Kéo xuống