Ít ai ngờ rằng, dưới chân núi Nứa, thuộc Vũng Tàu – một trong những thành phố sầm uất nhất cả nước lại có một ngôi làng còn lưu giữ những tập quán và nếp sống của người dân Nam Bộ cổ xưa. Đó chính là làng biển Long Sơn – nơi còn truyền đời phong tục 'chết chung hòm' vô cùng độc đáo và có phần lạ lùng, kỳ bí.
Đạo “Ông Trần”
Từ thành phố Hồ Chí Minh chạy dọc theo quốc lộ 51, quẹo phải ngã ba Long Sơn, qua cầu Bà Nanh là đến làng biển Long Sơn nằm yên bình dưới chân núi Nứa. Ngoài những phong tục tập quán đậm chất truyền thống, làng biển Long Sơn còn khá nổi danh với đặc sản hàu tươi sống.
Dọc con đường nhựa chạy quanh làng, khá nhiều hộ dân đang tất bật bóc tách vỏ hàu để kịp phục vụ nhu cầu dịp cuối năm, khiến không khí sinh hoạt nơi đây càng thêm phần sung túc.
< Núi Nứa trên đảo Long Sơn.
Chạy thêm một đoạn nữa là đến khu di tích Nhà Lớn. Đây chính là nơi lưu giữ những lễ nghi, phong tục độc đáo của những người theo đạo “Ông Trần”, là vị tiên hiền có công khai hoang lập nên làng Long Sơn ngày nay. Chính “Ông Trần” cũng là người đã xây dựng lên quần thể kiến trúc Nhà Lớn nên người dân nơi đây còn kính cẩn tôn là “Ông Nhà Lớn”.
Nhà Lớn rộng gần hai ha, bao gồm: Nhà hội, đền thờ, dãy phố, nhà thuyền, khu chợ, trường học và khu mồ mả “Ông Trần”. Nhà Lớn trước kia hoàn toàn làm bằng các loại gỗ quý như lim, sến, trắc, gu … Đặc biệt là kiến trúc các dãy phố, nơi xưa kia để dành làm chỗ nghỉ ngơi của khách phương xa, vẫn còn nguyên màu gỗ nâu bóng, với những hàng chữ Nho được điêu khắc tỉ mỉ phía ngoài.
Cụ Võ Văn Chót, 77 tuổi, là vị cao niên được trông coi nhà Lớn cho biết: “Vào những năm 70, một số nơi trong quần thể Nhà Lớn bị xuống cấp phải trùng tu và xây dựng lại bằng xi măng. Còn sáu dãy phố cũng bị đánh bom cháy mất một dãy, giờ chỉ còn lại năm”.
Nhờ sự hướng dẫn của người dân nơi đây, chúng tôi đã tìm gặp và được tiếp xúc với bà Lê Thị Kiềm, cháu đời thứ tư của “Ông Trần”. Bà Lê Thị Kiềm năm nay đã hơn 67 tuổi, vẻ mặt hiền hòa, phong thái nhã nhặn, rất có cung cách của một người đảm nhận nhiệm vụ trông coi nhà lớn. Bà Kiềm vận bộ đồ bà ba đen, tóc búi gọn sau gáy, xung quanh, có rất nhiều người cũng diện trang phục tương tự.
Thấy chúng tôi hiếu kỳ về cách ăn mặc của mình, bà cười hiền hòa và bảo: “Từ rất lâu rồi, dân Long Sơn vẫn có thói quen mặc đồ bà đen, búi tóc, bất kể đàn ông hay đàn bà, già cả hay trẻ trai”. Quả thật, đến Long Sơn, rất dễ dàng bắt gặp hình ảnh những người diện đồ bà đen, búi tóc, chân trần, đi lại ngoài phố chợ khiến khách lạ ngỡ như đang lạc vào một làng quê Nam Bộ ở cái thời cách đây mấy trăm năm về trước.
< Hình ảnh những người Nam Bộ xưa với áo bà ba đen, tóc búi sau ót.
Theo bà Kiềm, lý do người dân nơi đây có thói quen ăn mặc như vậy là vì ngày xưa, “Ông Trần” lúc nào cũng bận đồ bà ba đen để thuận tiện cho những công việc lao động nặng nhọc hàng ngày. Người dân thấy áo bà ba đen ít lấm bẩn, nên học theo và cho đến nay, thói quen ấy đã in sâu vào nếp sống của người làng Long Sơn.
Tên thật của “Ông Trần” là Lê Văn Mưu, sinh năm 1865, tại làng Thiện Khánh, tổng Hà Thành, quận Giang Thành, tỉnh Hà Tiên (nay là Kiên Giang). Ông là nghĩa binh chống Pháp vùng Bảy Thưa - Láng Linh (nay thuộc Anh Giang) do quản cơ Trần Văn Thành thống lĩnh. Sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại, nghĩa binh bị truy sát gắt gao, ông Lê Văn Mưu phải lưu lạc, lánh nạn khắp nơi.
< Người dân làng biển Long Sơn.
Đến năm 1900, ông cùng gia quyến đã vượt biển đến định cư dưới chân núi Nứa, lập nên ấp Bà Trao, nay là xã Long Sơn. Hiện, chiếc thuyền ông Lê Văn Mưu dùng để vượt biển còn gọi là Ghe Sấm, vẫn được lưu giữ và trưng bày tại Nhà Thuyền ở khu di tích Nhà Lớn. Theo bà Lê Thị Kiềm, thì sở dĩ gọi ông Lê Văn Mưu là “Ông Trần” vì vị tiên hiền này có thói quen đi chân trần, để đầu trần, suốt ngày lao động, phong thái chân chất như một người nông dân bình thường.
Ngoài ra, việc đi chân trần, để đầu trần còn mang ý nghĩa “đầu đội trời, chân đạp đất” của bậc anh hùng ngày xa xưa. Cho đến giờ, người dân Long Sơn vẫn tôn kính gọi “Ông Trần” bằng độc nhất một chữ “Ông”. Cụ Võ Văn Chót kể lại:
“Ông đã khai hoang mở đất, còn sẵn lòng cưu mang dân tứ xứ trôi dạt đến đây. Ông cắt đất, cắt ruộng cấp cho người mới đến, kêu gọi dân nơi đây cùng lao động, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau. Ông còn xây chợ, xây trường học rồi bỏ tiền rước thầy giáo từ Bà Rịa về Long Sơn để dạy cho dân chữ nghĩa. Ơn của Ông rất lớn, nên từ bao đời nay, dân làng Long Sơn vẫn một lòng tôn kính Ông”.
Chính vì thế, nên sau khi ông Lê Văn Mưu mất, trong dân gian đã hình thành tín ngưỡng đạo “Ông Trần”. Lấy những lời dạy của “Ông Trần” lúc sinh thời như: “Trai thời trung hiếu làm đầu – Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình” để làm phương châm sống. Đạo “Ông Trần” độc đáo ở chỗ không hề có chuông mõ, kinh kệ, giáo lý, không mê tín dị đoan mà chỉ là những lời được truyền khẩu qua nhiều đời về đạo đức, lối sống.
Bà Lê Thị Kiềm chia sẻ: “Thật ra, đạo Ông Trần chính là đạo làm người mà Ông đã truyền dạy cho con cái đời sau. Lúc sinh thời, Ông vẫn hay răn dạy những phẩm chất làm người như: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, hiếu kính với cha mẹ …”.
Tục “chết chung hòm”
Nghe theo đạo “Ông Trần” không bị buộc phải “li gia cắt ái” mà vẫn được phép lấy vợ, lấy chồng, xây dựng cuộc sống gia đình như bình thường. Ngoài ra, họ còn lưu giữ những phong tục tập quán riêng do “Ông Trần” chỉ dạy nhưng đặc biệt nhất, phải kể đến tục “chết chung hòm”.
< Nhà Lớn Long Sơn.
Theo bà Lê Thị Kiềm, tục này bắt nguồn từ câu “Ông Trần” đã dạy: "Sống đồng tịch đồng sàng, chết đồng quan đồng quách”. Theo đó, khi một gia đình trong làng báo có tang, thì những người hàng xóm xung quanh liền cùng nhau sang giúp đỡ. Người lo khăn áo, người chạy đi thỉnh chiếc “bao quan dùng chung” để về khâm liệm thi hài … và đám tang được gọi là “đám xác”.
Bà Đặng Thị My, được gọi là bà Bảy Chùm, năm nay 85 tuổi, ngụ ấp 1, xã Long Sơn cho biết: “Người đã mất được quấn trong ba lớp. Lớp thứ nhất là 4 thước 5 vải trắng, lớp thứ hai là một đôi chiếu, lớp thứ ba là 4 thước 5 vải đỏ. Sau đó quấn tiếp bằng 5 ruột vải trắng, gọi là “võng thân” – dùng để đưa thi hài xuống huyệt, rồi thi hài mới được đặt vào chiếc bao quan thỉnh ở Nhà Lớn về”.
Dưới đáy huyệt đã được để sẵn một đôi đệm, một đôi chiếu. Sau khi đưa thi hài xuống, người ta dùng 6 tấm lá chằm (lá dừa bện lại thành tấm, người xưa dùng để lợp nhà) xếp vào huyệt, mỗi bên ba tấm, mô phỏng hình nóc nhà hai mái.
Theo bà Phạm Thị Năm, 75 tuổi, thì sở dĩ vậy là do dân nơi đây luôn có ý niệm người đã khuất cũng cần có nhà đẻ không phải bơ vơ, hoang lạnh. Bà Lê Thị Kiềm cho biết thêm: “Xưa Ông dạy: “Sáng tử chiều táng, chiều tử sáng táng”, nên đám xác ở đây được tiến hành rất nhanh, trong vòng 24 giờ đã xong xuôi, hoàn tất. Không cần coi ngày, coi giờ cũng không quàn thi hài quá lâu như những nơi khác”.
Sau khi an táng xong, chiếc “bao quan dùng chung” kia lại được kính cẩn đưa về Nhà Lớn. Chúng tôi may mắn được đưa đi xem chiếc bao quan đã ủ ấm thi hài hàng ngàn người đã khuất tại Long Sơn. Chiếc bao quan được đặt trong khu nhà hội.
Qua vài lớp khóa, cánh cửa căn phòng nhỏ mở ra, ánh sáng buổi chiều le lói hắt qua những ô thông gió nhỏ chiếu lên chiếc bao quan màu đỏ như máu nằm im lìm trên hai chiếc ghế gỗ dài … cảnh tượng ấy khiến chúng tôi hơi gai mình. Lại gần một chút mới biết, màu đỏ tươi kia không phải là do sơn phết mà do sáp đèn cầy tan chảy, qua hàng ngàn “đám xác” lớp sáp cứ dày lên và bao phủ hết mặt ngoài của chiếc bao quan.
Cụ Võ Văn Chót, người đưa chúng tôi đi chiêm ngưỡng chiếc bao quan kể thêm: “Nắp của chiếc bao quan này được đan bằng lồ ô (một loại tre lớn – phóng viên), các cạnh cũng được viền bằng thân lồ ô, mặt dưới bằng gỗ, mặt trước được vẽ trang trí hình hoa sen cách điệu. Khi Long Sơn có tang gia, họ chỉ cần liên hệ Nhà Lớn thỉnh bao quan về, đặt thi hài người đã khuất vào, đập nắp, thắp đèn cầy lên, đưa ra huyệt chôn rồi lại đưa bao quan về đặt tại nơi đây”.
Khi được hỏi, tại sao ở Long Sơn lại có tục khâm liệm chung một bao quan hết sức lạ lùng này thì bà Lê Thị Kiềm chỉ cười hiền hòa: “Ngoài triết lý 'chết đồng quan đồng quách' thì Ông dạy làm đám xác như vậy còn là để dân nơi đây tập tính tiết kiệm. Và do an táng nhanh, không cúng bái, giết gà, mổ heo đãi khách linh đình nên hầu như đám xác ở Long Sơn rất ít khi tốn kém. Người phụ giúp chỉ dùng bữa cơm đạm bạc với gia chủ hữu sự rồi về”. Và độc đáo hơn, nghi thức xã tang được thực hiện ngay sau khi chôn cất người đã khuất.
Chúng tôi còn được đưa đi thăm khu mồ mả. Trái với tưởng tượng, khu mồ Ông Trần, có thể được gọi là vị Thành hoàng làng lại khá giản dị như bao nấm mồ khác. Mồ ở đây lại không có bia mộ, với mục đích sâu xa là tránh đi sự khoe mẽ, háo danh của những dòng tộc lớn muốn thể hiện sự giàu có của mình thông qua việc xây mồ mả khang trang.
Bà Lê Thị Kiềm điềm đạm nói: “Tục chôn cất chung một bao quan, mồ mả giản dị mang một thông điệp sâu xa rằng kẻ hèn, người sang, dân nghèo hay người có chức có quyền đều ngang hàng, bình đẳng như nhau. Và cũng là để tránh những lãng phí, rình rang không đáng có”.
Trong khi xã hội ngày càng nhiều những đám tang xa hoa phung phí, những khu lăng mộ được xây dựng hoành tránh để khuếch trương thanh thế liên tục mọc lên, thì tục an táng nhanh gọn, vừa tiết kiệm lại vừa mang lại những triết lý sâu xa của người làng Long Sơn quả thật mang nhiều nét tiến bộ vượt bậc.
Du lịch, GO! - Theo Pháp luật & Cuộc sống, ảnh internet
Đạo “Ông Trần”
Từ thành phố Hồ Chí Minh chạy dọc theo quốc lộ 51, quẹo phải ngã ba Long Sơn, qua cầu Bà Nanh là đến làng biển Long Sơn nằm yên bình dưới chân núi Nứa. Ngoài những phong tục tập quán đậm chất truyền thống, làng biển Long Sơn còn khá nổi danh với đặc sản hàu tươi sống.
Dọc con đường nhựa chạy quanh làng, khá nhiều hộ dân đang tất bật bóc tách vỏ hàu để kịp phục vụ nhu cầu dịp cuối năm, khiến không khí sinh hoạt nơi đây càng thêm phần sung túc.
< Núi Nứa trên đảo Long Sơn.
Chạy thêm một đoạn nữa là đến khu di tích Nhà Lớn. Đây chính là nơi lưu giữ những lễ nghi, phong tục độc đáo của những người theo đạo “Ông Trần”, là vị tiên hiền có công khai hoang lập nên làng Long Sơn ngày nay. Chính “Ông Trần” cũng là người đã xây dựng lên quần thể kiến trúc Nhà Lớn nên người dân nơi đây còn kính cẩn tôn là “Ông Nhà Lớn”.
Nhà Lớn rộng gần hai ha, bao gồm: Nhà hội, đền thờ, dãy phố, nhà thuyền, khu chợ, trường học và khu mồ mả “Ông Trần”. Nhà Lớn trước kia hoàn toàn làm bằng các loại gỗ quý như lim, sến, trắc, gu … Đặc biệt là kiến trúc các dãy phố, nơi xưa kia để dành làm chỗ nghỉ ngơi của khách phương xa, vẫn còn nguyên màu gỗ nâu bóng, với những hàng chữ Nho được điêu khắc tỉ mỉ phía ngoài.
Cụ Võ Văn Chót, 77 tuổi, là vị cao niên được trông coi nhà Lớn cho biết: “Vào những năm 70, một số nơi trong quần thể Nhà Lớn bị xuống cấp phải trùng tu và xây dựng lại bằng xi măng. Còn sáu dãy phố cũng bị đánh bom cháy mất một dãy, giờ chỉ còn lại năm”.
Nhờ sự hướng dẫn của người dân nơi đây, chúng tôi đã tìm gặp và được tiếp xúc với bà Lê Thị Kiềm, cháu đời thứ tư của “Ông Trần”. Bà Lê Thị Kiềm năm nay đã hơn 67 tuổi, vẻ mặt hiền hòa, phong thái nhã nhặn, rất có cung cách của một người đảm nhận nhiệm vụ trông coi nhà lớn. Bà Kiềm vận bộ đồ bà ba đen, tóc búi gọn sau gáy, xung quanh, có rất nhiều người cũng diện trang phục tương tự.
Thấy chúng tôi hiếu kỳ về cách ăn mặc của mình, bà cười hiền hòa và bảo: “Từ rất lâu rồi, dân Long Sơn vẫn có thói quen mặc đồ bà đen, búi tóc, bất kể đàn ông hay đàn bà, già cả hay trẻ trai”. Quả thật, đến Long Sơn, rất dễ dàng bắt gặp hình ảnh những người diện đồ bà đen, búi tóc, chân trần, đi lại ngoài phố chợ khiến khách lạ ngỡ như đang lạc vào một làng quê Nam Bộ ở cái thời cách đây mấy trăm năm về trước.
< Hình ảnh những người Nam Bộ xưa với áo bà ba đen, tóc búi sau ót.
Theo bà Kiềm, lý do người dân nơi đây có thói quen ăn mặc như vậy là vì ngày xưa, “Ông Trần” lúc nào cũng bận đồ bà ba đen để thuận tiện cho những công việc lao động nặng nhọc hàng ngày. Người dân thấy áo bà ba đen ít lấm bẩn, nên học theo và cho đến nay, thói quen ấy đã in sâu vào nếp sống của người làng Long Sơn.
Tên thật của “Ông Trần” là Lê Văn Mưu, sinh năm 1865, tại làng Thiện Khánh, tổng Hà Thành, quận Giang Thành, tỉnh Hà Tiên (nay là Kiên Giang). Ông là nghĩa binh chống Pháp vùng Bảy Thưa - Láng Linh (nay thuộc Anh Giang) do quản cơ Trần Văn Thành thống lĩnh. Sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại, nghĩa binh bị truy sát gắt gao, ông Lê Văn Mưu phải lưu lạc, lánh nạn khắp nơi.
< Người dân làng biển Long Sơn.
Đến năm 1900, ông cùng gia quyến đã vượt biển đến định cư dưới chân núi Nứa, lập nên ấp Bà Trao, nay là xã Long Sơn. Hiện, chiếc thuyền ông Lê Văn Mưu dùng để vượt biển còn gọi là Ghe Sấm, vẫn được lưu giữ và trưng bày tại Nhà Thuyền ở khu di tích Nhà Lớn. Theo bà Lê Thị Kiềm, thì sở dĩ gọi ông Lê Văn Mưu là “Ông Trần” vì vị tiên hiền này có thói quen đi chân trần, để đầu trần, suốt ngày lao động, phong thái chân chất như một người nông dân bình thường.
Ngoài ra, việc đi chân trần, để đầu trần còn mang ý nghĩa “đầu đội trời, chân đạp đất” của bậc anh hùng ngày xa xưa. Cho đến giờ, người dân Long Sơn vẫn tôn kính gọi “Ông Trần” bằng độc nhất một chữ “Ông”. Cụ Võ Văn Chót kể lại:
“Ông đã khai hoang mở đất, còn sẵn lòng cưu mang dân tứ xứ trôi dạt đến đây. Ông cắt đất, cắt ruộng cấp cho người mới đến, kêu gọi dân nơi đây cùng lao động, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau. Ông còn xây chợ, xây trường học rồi bỏ tiền rước thầy giáo từ Bà Rịa về Long Sơn để dạy cho dân chữ nghĩa. Ơn của Ông rất lớn, nên từ bao đời nay, dân làng Long Sơn vẫn một lòng tôn kính Ông”.
Chính vì thế, nên sau khi ông Lê Văn Mưu mất, trong dân gian đã hình thành tín ngưỡng đạo “Ông Trần”. Lấy những lời dạy của “Ông Trần” lúc sinh thời như: “Trai thời trung hiếu làm đầu – Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình” để làm phương châm sống. Đạo “Ông Trần” độc đáo ở chỗ không hề có chuông mõ, kinh kệ, giáo lý, không mê tín dị đoan mà chỉ là những lời được truyền khẩu qua nhiều đời về đạo đức, lối sống.
Bà Lê Thị Kiềm chia sẻ: “Thật ra, đạo Ông Trần chính là đạo làm người mà Ông đã truyền dạy cho con cái đời sau. Lúc sinh thời, Ông vẫn hay răn dạy những phẩm chất làm người như: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, hiếu kính với cha mẹ …”.
Tục “chết chung hòm”
Nghe theo đạo “Ông Trần” không bị buộc phải “li gia cắt ái” mà vẫn được phép lấy vợ, lấy chồng, xây dựng cuộc sống gia đình như bình thường. Ngoài ra, họ còn lưu giữ những phong tục tập quán riêng do “Ông Trần” chỉ dạy nhưng đặc biệt nhất, phải kể đến tục “chết chung hòm”.
< Nhà Lớn Long Sơn.
Theo bà Lê Thị Kiềm, tục này bắt nguồn từ câu “Ông Trần” đã dạy: "Sống đồng tịch đồng sàng, chết đồng quan đồng quách”. Theo đó, khi một gia đình trong làng báo có tang, thì những người hàng xóm xung quanh liền cùng nhau sang giúp đỡ. Người lo khăn áo, người chạy đi thỉnh chiếc “bao quan dùng chung” để về khâm liệm thi hài … và đám tang được gọi là “đám xác”.
Bà Đặng Thị My, được gọi là bà Bảy Chùm, năm nay 85 tuổi, ngụ ấp 1, xã Long Sơn cho biết: “Người đã mất được quấn trong ba lớp. Lớp thứ nhất là 4 thước 5 vải trắng, lớp thứ hai là một đôi chiếu, lớp thứ ba là 4 thước 5 vải đỏ. Sau đó quấn tiếp bằng 5 ruột vải trắng, gọi là “võng thân” – dùng để đưa thi hài xuống huyệt, rồi thi hài mới được đặt vào chiếc bao quan thỉnh ở Nhà Lớn về”.
Dưới đáy huyệt đã được để sẵn một đôi đệm, một đôi chiếu. Sau khi đưa thi hài xuống, người ta dùng 6 tấm lá chằm (lá dừa bện lại thành tấm, người xưa dùng để lợp nhà) xếp vào huyệt, mỗi bên ba tấm, mô phỏng hình nóc nhà hai mái.
Theo bà Phạm Thị Năm, 75 tuổi, thì sở dĩ vậy là do dân nơi đây luôn có ý niệm người đã khuất cũng cần có nhà đẻ không phải bơ vơ, hoang lạnh. Bà Lê Thị Kiềm cho biết thêm: “Xưa Ông dạy: “Sáng tử chiều táng, chiều tử sáng táng”, nên đám xác ở đây được tiến hành rất nhanh, trong vòng 24 giờ đã xong xuôi, hoàn tất. Không cần coi ngày, coi giờ cũng không quàn thi hài quá lâu như những nơi khác”.
Sau khi an táng xong, chiếc “bao quan dùng chung” kia lại được kính cẩn đưa về Nhà Lớn. Chúng tôi may mắn được đưa đi xem chiếc bao quan đã ủ ấm thi hài hàng ngàn người đã khuất tại Long Sơn. Chiếc bao quan được đặt trong khu nhà hội.
Qua vài lớp khóa, cánh cửa căn phòng nhỏ mở ra, ánh sáng buổi chiều le lói hắt qua những ô thông gió nhỏ chiếu lên chiếc bao quan màu đỏ như máu nằm im lìm trên hai chiếc ghế gỗ dài … cảnh tượng ấy khiến chúng tôi hơi gai mình. Lại gần một chút mới biết, màu đỏ tươi kia không phải là do sơn phết mà do sáp đèn cầy tan chảy, qua hàng ngàn “đám xác” lớp sáp cứ dày lên và bao phủ hết mặt ngoài của chiếc bao quan.
Cụ Võ Văn Chót, người đưa chúng tôi đi chiêm ngưỡng chiếc bao quan kể thêm: “Nắp của chiếc bao quan này được đan bằng lồ ô (một loại tre lớn – phóng viên), các cạnh cũng được viền bằng thân lồ ô, mặt dưới bằng gỗ, mặt trước được vẽ trang trí hình hoa sen cách điệu. Khi Long Sơn có tang gia, họ chỉ cần liên hệ Nhà Lớn thỉnh bao quan về, đặt thi hài người đã khuất vào, đập nắp, thắp đèn cầy lên, đưa ra huyệt chôn rồi lại đưa bao quan về đặt tại nơi đây”.
Khi được hỏi, tại sao ở Long Sơn lại có tục khâm liệm chung một bao quan hết sức lạ lùng này thì bà Lê Thị Kiềm chỉ cười hiền hòa: “Ngoài triết lý 'chết đồng quan đồng quách' thì Ông dạy làm đám xác như vậy còn là để dân nơi đây tập tính tiết kiệm. Và do an táng nhanh, không cúng bái, giết gà, mổ heo đãi khách linh đình nên hầu như đám xác ở Long Sơn rất ít khi tốn kém. Người phụ giúp chỉ dùng bữa cơm đạm bạc với gia chủ hữu sự rồi về”. Và độc đáo hơn, nghi thức xã tang được thực hiện ngay sau khi chôn cất người đã khuất.
Chúng tôi còn được đưa đi thăm khu mồ mả. Trái với tưởng tượng, khu mồ Ông Trần, có thể được gọi là vị Thành hoàng làng lại khá giản dị như bao nấm mồ khác. Mồ ở đây lại không có bia mộ, với mục đích sâu xa là tránh đi sự khoe mẽ, háo danh của những dòng tộc lớn muốn thể hiện sự giàu có của mình thông qua việc xây mồ mả khang trang.
Bà Lê Thị Kiềm điềm đạm nói: “Tục chôn cất chung một bao quan, mồ mả giản dị mang một thông điệp sâu xa rằng kẻ hèn, người sang, dân nghèo hay người có chức có quyền đều ngang hàng, bình đẳng như nhau. Và cũng là để tránh những lãng phí, rình rang không đáng có”.
Trong khi xã hội ngày càng nhiều những đám tang xa hoa phung phí, những khu lăng mộ được xây dựng hoành tránh để khuếch trương thanh thế liên tục mọc lên, thì tục an táng nhanh gọn, vừa tiết kiệm lại vừa mang lại những triết lý sâu xa của người làng Long Sơn quả thật mang nhiều nét tiến bộ vượt bậc.
Du lịch, GO! - Theo Pháp luật & Cuộc sống, ảnh internet
0 comments:
Post a Comment